Phật Giáo Hoà Hảo Úc Châu

Phật Giáo Hòa Hảo?

Harmony Buddhism được dịch từ một tôn giáo tên mà danh xưng là ‘Phật Giáo Hòa Hảo’. Trong khi Phật giáo là tôn giáo có nguồn gốc từ cố đô của Nepal, tiếp giáp với Ấn Độ, ‘Hòa Hảo’ thực sự là tên của một ngôi làng, thị trấn Phú Tân, Chợ Mới, An Giang, ở phía Tây Nam Việt Nam, nơi vị khai sáng nền đao này sinh ra và vào năm 1939, đã bắt đầu sứ mệnh của mình khi Ngài chỉ mới 19 tuổi. Như hai chữ “Hòa Hảo” theo nghĩa đen có nghĩa là ‘Hòa hợp yêu thương’, không phải ngẫu nhiên mà vị khai sáng đặ́t tên theo nghĩa đen có nghĩa là ‘Hòa hợp yêu thương’ Dịch giả thấy rằng nó phản ánh rất đúng với cả mục đích của triết lý và hành động của Ngài. Ý nghĩa đó đã được Stephanie Lucas tóm gọn như sau:

 

 

Dẹp gát được cái ‘tôi’ và tỉnh thức với một ‘thực tại yêu thương’ thì không gì đẹp bằng. Không còn những phán xét, kỳ vọng, nhận thức về tầm quan trọng của bản thân, nhiều người cảm thấy thân tâm nhẹ nhàng, an thái, và tự do ngay lập tức. Tình yêu trong tất cả mọi thứ là rõ ràng, bạn tự nhiên thấy hạnh phúc, và bạn nhìn thấy  sự bình đẳng của tất cả – tất cả một hoặc không riêng ai trong chúng sinh hoạt động và rung động hài hòa với mẹ thiên nhiên. Thế giới nhị nguyên của bạn có thể kết thúc khi cả ý thức và tiềm thức hoạt động hòa điệu với nhau. Và trở thành trang thái tự nhiên của bạn một cách tự nhiên.” (Stephanie Lucas: con đường đi đến giác ngộ: hành trình tâm linh đến hạnh phúc).

Đâu Là Nguyện Vọng và Mục Tiêu của Dự Án?

Nguyện Vọng:

1.- Thúc đẩy sự hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau giữa các tôn giáo;

2.-Tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao tiếp Phật giáo Hòa hợp với khán giả không nói tiếng Việt nói chung và thế hệ trẻ nói tiếng Việt bên ngoài Việt Nam nói riêng.


Mục tiêu:

1.- Voluntarily translate where possible the contents of Harmony Buddhism based on the Six Volumes of Oracles and more than 200 poems and 20 articles in prose, composed by Lord Master and collected by his disciples.


2.-Trying to explain as many technical Buddhist, Taoist, and Confucian, terms from Vietnamese into English as possible, using the variety of sources, which are contained in the Six Volumes of the Oracles and about 200 poems and proses.

Bản Chất và Nguồn Gốc Phật Giáo Hòa Hảo

Theo như nguồn gốc của nó, Phật giáo Hòa Hảo, là hậyu thân của Bửu Sơn Kỳ Hương, Núi Ngọc và Nước Hoa lạ trong tiếng Anh, mà Đức Phật Thầy Tây An, Đức Phật của Hòa Bình Phương Tây, thành lập khoảng một trăm năm trước đó, 1849. Thật dễ dàng để xác định sự tương đồng của chúng giữa hai luồng cho các nguyên tắc lý thuyết và thực tiễn của chúng. Về lý thuyết, cả hai nhà lãnh đạo sáng lập là Đức Phật Đoàn Minh Huyên và Đức Huỳnh Phú Sổ, cho rằng tôn giáo của họ là sự tổng hợp của ba tôn giáo chính của Việt Nam, đó là Đạo giáo, Phật giáo và Nho giáo, nhuốm màu truyền thống văn hóa của Việt Nam đước trước nhu cầu hiện đại hóa.

 

Vào cuối thế kỷ XIX, Đức Phật chủ yếu giải quyết việc khai thác và làm giàu khu vực phía Nam về thể chất và tinh thần, thì Đức Huỳnh phải đối mặt với tác động nhiều mặt và kéo dài của sự chiếm đóng của nước ngoài đối với Việt Nam, làm gián đoạn kết cấu xã hội của đất nước. Như vậy để có hiệu quả, trong khi người tiền nhiệm tham gia đặt nền móng cho Phật Giáo Hòa Hảo, người kế nhiệm đã vận động quần chúng đấu tranh cho độc lập dân tộc của mình là ưu tiên hàng đầu, là tiền đề một điều kiện tiên quyết để tôn giáo được phục hồi. Theo nghĩa này, họ đơn giản hóa tất cả các phương pháp thực hành tôn giáo, loại bỏ các hoạt động không cần thiết không chỉ lãng phí năng lượng và tài chính của quần chúng, mà còn chuyển hướng họ khỏi nghĩa vụ thẳng thắn hơn để tự do hóa đất nước của họ và, tất nhiên, tự do tôn giáo và các quyền con người khác của họ sẽ theo sau.

 

Đối với bản chất của Phật giáo Hòa Hảo, Hòa Thượng luôn nói rằng giáo lý của Ngài bắt nguồn từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, do đó, các nguyên tắc cốt lõi của Phật giáo có thể được tìm thấy trong Phật giáo Hòa Hảo. Tuy nhiên, văn hóa Việt Nam là nơi hợp lưu truyền thống của ảnh hưởng của Trung Quốc và Ấn Độ trong hơn hai nghìn năm, đã ăn sâu vào đời sống của tất cả các thành phần xã hội, đặc biệt là nông dân chiếm phần lớn dân số không cân xứng vào thời điểm đó trong khi Việt Nam vẫn là một xã hội phong kiến với nền kinh tế dựa vào nông nghiệp. Trong tám năm truyền bá đức tin, Đức Huỳnh đã thu hút khoảng hai triệu tín đồ, bao gồm những cư dân của đồng bằng sông Cửu Long. Những lời dạy của Ngài có hiệu quả nhờ việc sử dụng tiếng địa phương và thơ ca của Ngài, được hỗ trợ bởi một phép lạ chữa lành đức tin và gián đoạn mà Ngài đã thực hiện để khơi dậy niềm tin của thường dân vào Phật và các vị thần khác. Những lời dạy của Ngài rất thiết thực ở chỗ Ngài luôn thúc giục mọi người trả bốn món nợ lớn về lòng biết ơn của họ như một điều kiện tiên quyết cho bất kỳ con người nào để tự cứu mình khỏi những đau khổ đang lan tràn trên hành tinh Trái đất.

Ảnh Hưởng của Phật Giáo Hoà Hảo

 

Thứ nhất, nhờ sự khai sáng của Phật giáo Hòa Hỏa, quần chúng Việt Nam, những người còn lâu mới làm chủ được cuộc sống của họ dưới sự cai trị của thực dân kéo dài tám mươi năm và sự phân nhánh kinh tế xã hội của nó, cuối cùng đã tìm thấy sự hỗ trợ tinh thần của Đức Huỳnh, một trong những nhà cách mạng sáng suốt trong nhiều lĩnh vực. Nhà tiên tri đã tận dụng khoảng trống chính trị tương đối được tạo ra bởi sự bùng nổ Thế chiến II, với một chính phủ thực dân suy yếu và nhiều phong trào dân tộc chủ nghĩa nổi lên được tạo điều kiện bởi cuộc xâm lược của Nhật Bản, trợ duyên cho công tác hoằng pháp của Ngài đến các lĩnh vực khác nhau từ năm 1939 đến năm 1947. Những lời dạy của Ngài vô cùng quan trọng đối với những người theo chủ nghĩa dân tộc đang mò mẫm tìm kiếm một bộ nguyên tắc tổ chức khả thi cho đất nước của mình, giữa các hệ tư tưởng cạnh tranh với các màu sắc khác nhau. Ngài đã cung cấp một triết lý chính trị rất khả thi nhữ đã được áp dụng thành công ở các nền dân chủ Bắc Âu, Scandinavia, làm nền tảng cho sự ổn định và gương mẫu của phần còn lại của Tây Âu vào lúc Đệ Nhị Thế Chiến chấm dứt.

 

 

Thứ hai, trên thực tế, Ngài đã cứu đất nước khỏi nhiều đổ máu không cần thiết như là kết quả của cuộc đấu tranh của những người Cộng sản với phong cách lãnh đạo độc tài vay mượn từ các cuộc cách mạng Liên Xô và chủ nghĩa Mao, nơi các đế quốc, phát xít và cộng sản xung khắc  trong sự cạnh tranh của họ giành quyền lãnh đạo ở các nước thế giới thứ ba.  Thật không may, trong khi Đức Huỳnh có thể tránh được một tình huynh đệ tương tàn giữa các môn đệ của Ngài và Liên minh Độc lập do cộng sản lãnh đạo, akia Việt Minh, Ngài không thể làm như vậy cho cả đất nước Việt Nam mà cuối cùng đã rơi vào cạm bẫy của hội chứng sau Thế chiến II, cuộc xung đột ý thức hệ khắc nghiệt. Sự lựa chọn của Đức Thầy để cho Việt Minh điều hành chương trình cũng chứng tỏ Ngài là một vị siêu  phàm, người có thể đã sử dụng sức mạnh siêu nhiên của mình để làm cho mọi thứ đi theo cách của mình, nhưng Ngài đã không làm vậy vì Phật giáo cho rằng mọi người đều phải tuân theo luật nhân quả, và thiên cơ mà Ngài luôn truyền bá đã được cõi trên sắp xếp mà ngài không thể thay đổi bằng sức mạnh siêu nhiên của mình.

 

 

Thứ ba, Ngài đã vượt xa Phật giáo đương đại và các thực hành xã hội và văn hóa của Việt Nam khỏi một tôn giáo lạc hậu, mê tín dị đoan và vô số gánh nặng xã hội. Ông đã vực dậy tinh thần bất khuất trong giới trẻ Việt Nam đang đứng trên bờ vực thẳm khi họ bị tha hóa bởi chủ nghĩa vọng ngoại và mất phương hướng vì thiếu một nền giáo dục chân chất quá lâu.  Song song với các sáng kiến tôn giáo và đạo đức, có rất nhiều cải cách từ nông nghiệp, thương mại, y tế, phúc lợi xã hội, đến an ninh và hiện đại hóa lối sống, dưới sự lãnh đạo của Đức Huỳnh. Cũng không quá đáng khi nói rằng Ngài là một viên ngọc quý trong lúc xã hội của thời đại Ngài đang sống vô cùng hổn loạn. Song song với các sáng kiến tôn giáo và đạo đức, Ngài có rất nhiều cải cách từ nông nghiệp, thương mại, y tế, phúc lợi xã hội, cho đến đến an ninh và nhu cầu hiện đại hóa lối sống.

 

 

Điều này phản ánh các mục tiêu mà Ngài đã đặt ra trong tuyên ngôn Sứ Mạng của Ngài. Thật vậy, những gì Ngài đã giảng dạy vẫn còn vang vọng cho đến ngày nay, không chỉ ở Việt Nam mà còn trên toàn thế giới, và điều này đã được chứng minh là rất phù hợp với diễn biến của thế giới. Hầu hết những lời tiên tri của Ngài đã được cảm nhận bởi con người bằng cách nào đó thành hiện thực. Mặc dù Mệnh Trời không thể được hé lộ hoàn toàn cho con phàm nhân về thời gian và địa điểm cụ thể, nhưng nó sẽ tiến triển đến những điểm càng rõ ràng hơn, đối với những ai càng sống có ý thức hơn về vai trò và trách nhiệm của mình đối với chính mình và nhân loại, hệ thống sinh thái.

 

What is Harmony Buddhism?

Harmony Buddhism is translated from a religion named ‘Phật Giáo Hòa Hảo’. While Buddhism stands for a religion originating from an ancient capital city of Nepal, adjacent to India, ‘Hòa Hảo’ is the name of a village, Phu My district,  Phu Tan township, Cho Moi, An Giang, in the Southwestern part of Vietnam, where the founder of this religion was born and, in 1939, launched his mission when he was only 19 years old. As Hòa Hảo literally means ‘Loving Harmony’, it is not a coincidence that the founder named his religion that way. And, by giving it such a translation as ‘Harmony Buddhism’, the translator finds that it reflects very well on both the purpose of Lord Master’s philosophy and deeds. That meaning was summed up very well by Stephanie Lucas thus:


“Losing Your Ego and Waking Up to a ‘Loving Reality’ is Beautiful With no more dominating judgments, expectations, and sense of self-importance, many feel an immediate sense of happiness, lightness, and freedom. Love in all things is readily apparent, you are naturally happy, and you see the equality of all – the all one or none of the beings and mother nature working and vibrating in harmony. Your world of duality may come to an end as the conscious and subconscious work in concert and that becomes your normal state naturally.” (Stephanie Lucas: path to enlightenment: spiritual journey to happiness)

What are the project's aims and objectives?

Aims:

1.-To promote mutual understanding and respect among the religions;

 

2.-To facilitate the communication of Harmony Buddhism with the non-Vietnamese speaking audience, in general, and the younger generation of Vietnamese-speaking background outside of Vietnam, in particular.

 

Objectives:

 1.-Voluntarily translate where possible the contents of Harmony Buddhism based on the Six Volumes of Oracles and more than 200 poems and 20 articles in prose, composed by Lord Master and collected by his disciples.

 

2.-Trying to explain as many technical Buddhist, Taoist, and Confucian, terms from Vietnamese into English as possible, using the variety of sources, which are contained in the Six Volumes of the Oracles and about 200 poems and proses.

Origin & nature of Harmony Buddhism?

As far as its origin is concerned, Harmony Buddhism, Phật Giáo Hòa Hảo, is a successor to Buu Son Ky Huong, The Jewel Mountain and Strange Perfume for English, which Đức Phật Thầy Tây An, Lord Master Buddha of the Western Peace, established about one hundred years earlier, 1849. It is easy to ascertain their commonality between the two streams for their theoretical and practical principles. In theory, both the founding leaders, Lord Master Buddha Doan Minh Huyen and Lord Master Huynh Phu So, held that their religions are a synthesis of three main religions of Vietnam, that is, Taoism, Buddhism, and Confucianism, tinged with the cultural traditions of Vietnam facing her needs for modernization.

 

In the late nineteenth century, Lord Master Buddha mainly dealt with the opening up and enrichment of the Southern region physically and spiritually, Lord Master Huynh faced a multifaced and prolonged impact of the foreign occupation of Vietnam, that disrupted the social fabric of the country. Thus to be effective, while the predecessor engaged in laying foundations for Hoa Hao Buddhism, the successor mobilized the masses to fight for their national independence as a first priority, a pre-condition for the religion to be reinstated. In this sense, they simplify all the methods of religious practice, eliminating unnecessary activities that not only waste masses’ energy and finances, but also divert them from their more upfront obligation to liberalize their country and, of course, their freedom of religion and other human rights would follow suit.

 

For the nature of Hoa Hao Buddhism, Lord Master always said that his teachings are derived from Lord the Patriarch Buddha Shakyamuni, therefore, the core principles of Buddhism can be found in Hoa Hao Buddhism. However, the culture of Vietnam is a traditional confluence of Chinese and Indian influences for more than two thousand years, which are deep-rooted in the lives of all social sectors, especially the peasants who occupied a disproportionate majority of the population at that time given Vietnam had remained a feudal society with an agriculturally based economy. During his eight years of faith propagation, Lord Master Huynh attracted about a two million-strong following, who consists of those inhabitants of the Mekong Delta. His teachings which owed their effectiveness to his use of vernacular and poetry were supported by a faith-healing and intermittent miracles which He performed in order to rekindle commoners’ belief in Buddhas and other divinities. His teachings are very practical in that He always urges people to repay their four great debts of gratitude as a pre-requisite for any human being to save themselves from the sufferings that are rampant on planet Earth.

the influence of Harmony Buddhism?

First, thanks to the appearance of Harmony Buddhism, the Vietnamese masses who had been far from taking control of their lives under the eighty years long colonial rule and its socio-economic ramifications eventually found unique spiritual support in the appearance of Lord Master Huynh, one of the emergent revolutionaries in many areas. The prophet took advantage of the relative political vacuum created by the emergence of the World War II, with a weakened colonial government and multiple resurging nationalist movements facilitated by the Japanese invasion, to broaden His preachings to different sectors of the society from 1939 to 1947. His teaching is critical to those nationalists who are groping for a viable set of organizational principles for their country, in the competing ideologies of different colors. He provided a political philosophy that has proven highly viable in Scandinavian democracies, with stability and exemplar of the rest of the Western countries at the end of WWII.

 

 

Second, in reality, He saved the country from as much unnecessary bloodshed as a consequence of the struggle of Communists for the dictatorial style of leadership borrowed from the Soviet and Maoist revolutions, where the imperialists, fascists, and communists found their rivalry in the third world countries, culminating in in the Soviet Bloc. Unfortunately, while Lord Huynh could avoid a fratricide between His disciples and the communist-led Alliance for Independence, akia Viet Minh, He could not do so for the whole country of Vietnam which eventually fell in the trappings of the post-World War II syndrome, the draconian ideological conflict. His choice of self-effacement to let the Viet Minh run the show also demonstrates He was truly a superhuman, who could have exercised His supernatural powers to make things go His way, but He did not because Buddhism held that everyone had to incur the law of cause and effect, and the predestiny which He always propagated has been heavenly set and which He could not change with his supernatural powers.

 

 

Third, He had outstripped his contemporary Buddhism and the social and cultural practices of Vietnam from an exsanguined religion, superstitions, and myriad social burdens. He restored the spirit of invincibility among the young Vietnamese who were standing on the verge of an abyss as they have been alienated by exotism and disoriented due to their lack of a true education system for too long. In parallel with religious and moral initiatives, there are so many reforms from agriculture, commerce, healthcare, social welfare, to security and modernisation of lifestyle, under the leadership of Lord Master Huynh. It is not an exaggeration that He was a gem in the social morass of His era.

 

 

This reflects the goals which He has set out in His mission statement. Indeed what He has taught still echoes until now, not only in Vietnam but also around the world, and has proven highly relevant and pertinent to the progress of the world. Most of His prophesies have been felt by people somehow materialising. Even though the heavenly destiny cannot be entirely revealed to the human being in terms of specific times and places, it will progress to such points that people must know the better, the more conscientious they are in their practice.