Người sáng lập Đạo Phật Giáo Hòa Hảo là Đức Huỳnh Phú Sổ. Đản sanh ngày 25 tháng 11 năm Kỷ Mùi (15-01-1920) tại làng Hòa Hảo tỉnh Châu Đốc, một tỉnh giáp biên thùy Việt Miên thuộc miền Nam Việt Nam. Ngài là trưởng nam của Đức Ông Huỳnh Công Bộ và Đức Bà Lê Thị Nhậm; một gia đình trung lưu, nhiều phúc hậu và nhiều uy tín với người dân địa phương. Thuở nhỏ, vừa học xong đến hết bậc tiểu học thì đau ốm liên miên, nên Ngài phải rời nhà trường về dưỡng bịnh. Từ 15 đến 19 tuổi, Ngài không lúc nào dứt được cơn đau và không một lương y nào trị được.
Năm 1939, sau khi hướng dẫn thân phụ đi viếng các hang động và chùa am ở vùng núi Thất SơnCòn gọi là Bảy Núi, danh xưng gọi chung cho quần thể có hơn mười ngọn núi lớn nhỏ tập trung trong vùng Tịnh Biên, Châu Đốc, thuộc tỉnh An Giang, trong đó núi Thiên Cẩm Sơn nổi tiếng là linh thiêng và có nhiều cậu chuyện huyền bí mà Đức Huỳnh Giáo Chủ thường nhắc đến trong các bài Sám Thi do Ngài viết và Tà Lơnlà quần thể núi thuộc tỉnh Kampot, nước Cao Miên, nơi có nhiều vị tu hành đắc đạo, trong đó nổi tiếng nhất là vùng Lang-Thiên được nhắc đến như là nơi được nhiều tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo hành hương, là những núi non nổi tiếng linh thiêng hùng vĩ, Ngài tỏ ra đại ngộ. Ngày 18-05 Kỷ Mão (1939) Ngài chính thức khai Đạo. Bắt đầu là công việc trị bệnh, Ngài chữa lành nhiều chứng hiểm nghèo với phương pháp thật giản đơn, nghĩa là chỉ dùng lá cây, nước lã, giấy vàng, khiến các bác sĩ Tây y, các dược sư Đông y lẫn các danh gia phù thủy đều phải kinh ngạc.
Song song với việc chữa bịnh, Ngài du thuyết nhiều nơi và lời thuyết pháp của ngài thao thao bất tuyệt. Nhiều thi sĩ văn gia hoặc luật gia nghe tiếng, đến thử sự thông minh và sự hiểu biết của ngài, đều phải công nhận Ngài là một bậc siêu phàm.
Cũng từ năm 1939, Ngài sáng tác thật nhiều Kệ Giảng nội dung tiên tri chiến cuộc sẽ tràn lan, nhân loại sẽ điêu linh, thống khổ và kêu gọi mọi người nên bỏ dữ về lành, thực hành Tứ ÂnBốn Đại Trọng Ân” Ân Tổ Tiên Cha Mẹ, Ân Đất Nước, Ân Tam Bảo, Ân Đồng Bào và Nhân Loại, trau giồi thiền tịnh để trở thành thiện nhân trong xã hội và tiến đến sự nhập diệu cõi đạo.
Nhìn qua công đức giảng dân cứu chúng, người ta thấy Ngài chữa được hằng vạn chứng hiểm nghèo, thuyết pháp hằng ngàn lần trước đại đa số thính chúng và sáng tác sáu quyển Kệ Giảng cùng với hàng trăm bài thi ca, văn, chú có giá trị siêu việt đối với nước Việt Nam đương thời. Văn chương của Ngài cực kỳ bình dân nhưng rất hàm súc hấp dẫn. Ngài viết không cần giấy nháp.
Giáo pháp của Đức Giáo Chủ tuy cao siêu nhưng không kém phần thực tế, có thể áp dụng cho bất cứ một nơi nào trên thế gian. Ngài là một nhà đại cách mạng tôn giáo. Vì trước khi Ngài ra đời, Đạo Phật Việt Nam bị đình đốn sai lạc, và Đạo Phật thế giới cũng không khác, chưa nói tới việc canh tân. Ngài đã cắt bỏ tất cả những nghi lễ phiền toái mà căn nguyên không phải do Đức Phật Thích Ca chủ trương, đồng thời còn canh tân nhiều điểm trong phương pháp thực hành mà trước kia không hề có.
Nhờ Giáo pháp thích thời đó nên chỉ trong một thời gian ngắn, Ngài thu phục được trên dưới hai triệu tín đồ tại miền Nam Việt Nam và ảnh hưởng mỗi lúc càng lan rộng thêm ra.
Vì Ngài được quần chúng quá mến mộ nên nhà đương cuộc bắt đầu để ý đến sự bành trướng dị thường của phong trào Phật Giáo Hòa Hảo, nên một loạt biện pháp chánh trị đã được đem ra thi hành và Ngài phải bị quản thúc tại làng Nhơn Nghĩa, tỉnh Cần Thơ.
Ở đây, Ngài lại được người ta tôn sùng hơn trước nữa, làm cho nhà cầm quyền phải đem Ngài an trí tại nhà thương Chợ Quán. Sau đó, Ngài lại bị dời về Bạc Liêu đến năm 1942.
Khi người Nhựt nhúng tay vào thời cuộc Đông Dương Indochina, the three countries of Vietnam, Laos, and Cambodia formerly associated with France, first within its empire and later within the French Union. The term Indochina refers to the intermingling of Indian and Chinese influences in the culture of the region. trong hồi thế giới chiến tranh kỳ nhì, họ cưỡng bách đem Ngài về Sài Gòn thì Ngài buộc lòng tá túc tại cơ sở Hiến binh Nhựt để chờ đợi thời cơ thuận tiện ra gánh vác việc nước nhà. Khi đó Ngài có làm một câu đối để diễn tả hoàn cảnh của mình:
Trương TiênTên là Trương Phi, anh em kết nghĩa với Lưu Bị và Quan Vân Trường, đều thuộc nhà THục Hán, có thời gian vì hoàn cảnh tá tuúc dưới nhà Hán do Tào Tháo làm nhiếp chính tập trung yất cả quyề̉n lực triều chính vào tay mình qui Hớn phi thần Hớn,
Quan Đế Quan Thánh Đế Quân là tên gọi một vị danh tướng của nhà Thục thời Tam Quốc, tên là Quan Vũ (?-219), tự là Trường Sanh, Vân Trường, thường gọi là Quan Công. Ông đã từng phục vụ cho Lưu Bị nhà Thục, rất liêm chính, cương trực, sau bị Tôn Quyền nhà Ngô giết chết. Ông được sùng kính như là vị anh hùng của quốc dân, được xem như là bậc thánh và được thờ tại Quan Đế Miếu, cho nên có tên gọi là Quan Thánh Đế Quân. cư Tào bất đê Tào.”
Sở dĩ người Nhựt muốn thi ân với Ngài là vì họ muốn gây cảm tình với khối tín đồ khổng lồ của Ngài để sau nầy có thể lợi dụng. Nhưng đã là một người sáng suốt thì Ngài đâu có để cho bọn Nhựt lôi cuốn trong việc chuẩn bị của họ chống Đồng minh.
Sau cuộc đảo chánhNói về biến cố quân Nhật lật đổ chính quyền thực dân Pháp tại ba nước Đông Dương mùng 9 tháng 3 dương lịch 1945, Ngài giữ một thái độ hết sức dè dặt vì Ngài biết chắc chắn rằng người Nhựt thế nào cũng thất trận. Lúc đó, Ngài nói một lời tiên tri rất hài hước “Nhật Bổn ăn không hết con gà”. Mà thiệt vậy! Vì năm Dậu (con gà) mà cũng là năm 1945 chưa hết, thì số phận nước Nhựt đã được định đoạt.
Năm 1945, “vì lòng từ ái chứa chan, thương bách tính tới hồi tai họa”, nên Ngài đứng ra bảo vệ quốc gia và cứu nguy dân chúng. Ngài từng thành lập Phật Giáo Liên Hiệp Hội để đoàn kết đạo Phật, và Việt-Nam Độc-Lập Vận-Động-Hội để vận-động cuộc độc-lập nước nhà.
Sau khi Nhựt Hoàng Hirohito was Emperor of Japan from 1926 until his death in 1989. His role in Japan’s government in the World War Two remains highly controversial đầu hàng Đồng minh một cách vô điều kiện, đất nước Việt Nam phải lâm vào một thời kỳ bất định. Đồng bào Việt Nam đương lo sợ cảnh dịch chủ tái nô, Đức Huỳnh Giáo Chủ liền quy tựu lãnh tụ các đảng phái và tôn giáo bạn để thành lập Mặt trận Quốc gia và Việt Nam Độc Lập Vận Động Hội hầu có tiếng nói mạnh mẽ hơn đối với cộng đồng thế giới để vận động độc lập cho nước nhà.
Ít lâu sau, mặt trận nầy lại bị Việt Minh sáp nhập vào Mặt trận Việt Minh mà chính Đức Huỳnh Giáo Chủ là vị đại diện đầu tiên ở Nam Việt.
Sau sự thất sách của Ho Chi MinhNhân vật lịch sử Việt Nam thuộc Đệ Tam Quốc Tế trong phong trào chống thực dân thế kỷ tiền bán hai mươi với Hiệp Ước mùng 6 tháng 3 năm 1946, tạo cơ hội thuận tiện cho thực dân Pháp trở lại, Đức Huỳnh Giáo Chủ liên kết với các lãnh tụ quốc gia để thành lập Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp.
Mặt trận nầy được quần chúng nhiệt liệt hoan nghinh nhưng (nên) lại bị Việt Minh giở ngón độc tài giải tán. Họ liền thành lập Liên Hiệp Quốc Dân Việt Nam Hội để che đậy màu sắc đỏ của Đệ Tam Quốc Tế và để làm cho quần chúng quên cái dĩ vãng đẫm máu của các tướng Cộng Sản hồi cuối năm 1945. Năm 1946, vì muốn gây cuộc đoàn kết giữa các tầng lớp đồng bào, Ngài chấp nhận tham gia Ủy Ban Hành Chánh với trách vụ Ủy Viên Đặc Biệt.
Trong thời gian đó, Ngài liên kết các chiến sĩ quốc gia với khối tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo để thành lập Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng ngày 21-09-1946, với chủ trương công bằng xã hội và dân chủ hóa nước Việt Nam. Ngài chẳng những là một nhà cách mạng tôn giáo anh minh mà còn là một lãnh tụ chánh trị đa tài. Đọc Tuyên ngôn, Chương trình của Đảng Dân Xã do Ngài đưa ra, dù cho đối phương hay những người khó tánh nhất đương thời, họ đều phải công nhận Ngài có óc cải tiến vượt bực.
Song song với việc chấn chỉnh nội tình, Ngài gởi người ra hải ngoại, kết hợp với các nhà cách-mạng quốc-gia lưu vong để thành-lập Mặt Trận Thống- Nhứt Toàn-quốc.
Chủ trương giải pháp Quốc-Gia Căn cứ vào Bản Tuyên ngôn Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng được Đức Huỳnh Giáo Chủ viết ra, giải ̉pháp quốc gia theo ý của Ngài, điều quan trọng nhất, dù sống dưới chánh thể nào, người dân Việt Nam sau bao nhiêu năm bị đô hộ, bị tước đoạt các quyền tự do căn bản của con người, được phục hồi nhân phẩm, thực thi các quyền ấy, trên hết quyền dân tộc tự quyết, được đối xử bình đẳng trên trường quốc tế với các dân tộc khác, xem Bản Tuyên Ngôn Dân Xã Đảng.”là công trình do Ngài và các nhà cách-mạng xuất dương thực hiện tồn tại cho đến ngày nay. Bởi đường lối của Ngài đi ngược lại với chủ nghĩa Cộng sản, có thể đưa đến sự sụp đổ của thuyết vô thần, Cộng-sản đã tìm mọi cách làm hại Ngài, nhưng họ đều thất bại.
Đầu năm 1947, tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo ở miền Tây biểu tình chống lại các Ủy Ban Việt Minh có tính chất độc đoán vì họ áp đặt cách điều hành độc tài lên sự tổ chức và quản lý quần chúng. Muốn tránh cuộc cốt nhục tương tàn, Đức Huỳnh Giáo Chủ về miền Tây Nam Việt với hảo ý trấn tỉnh lòng phẫn nộ của tín đồ của ngài và để giảng hòa với lực lượng võ trang Việt Minh nhằm đoàn kết chống thực dân cho có hiệu quả.
Nhưng ngày 25 tháng 2 nhuần năm Đinh Hợi (16-04-1947), Ủy Ban Hành Chánh Việt Minh âm mưu hại Ngài tại Đốc Vàng Hạ, thuộc vùng Đồng Tháp.
Từ đó không ai rõ tin tức chi về Đức Huỳnh Giáo Chủ, nhưng trong đoàn thể tín đồ, không ai tin rằng Việt Minh Cộng Sản có thể làm hại được Ngài. Và muôn người như một đang mong đợi một ngày về trong sứ mạng vinh quang nhất của Ngài.
Quyển sách “Cách Tu Hiền” sau đây là một trong nhiều tác phẩm của Ngài đã được tái bản trên 300 lần với ấn lượng trên 800.000 quyển bằng tiếng Việt Nam. Nó ngắn gọn nhưng đủ rõ những điều cần thiết trong nghi thức tu hành theo Đạo Phật Giáo Hòa Hảo.
Thánh địa Hòa Hảo, ngày 01-01-1966,
Ban Phổ Thông Giáo Lý Trung Ương Giáo Hội P.G.H.H. (nhiệm kỳ I, 1964 – 1966)
Kính đề
(xã Hòa Hảo, thị trấn Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang :Phú Mỹ (thị trấn) – Wikipedia tiếng Việt )
The founder of Phật Giáo Hòa Hảo is the very venerable Huynh Phu So, Master or Đức Thầy. Buddhism. He was born at Hoa Hao Village, Chau Doc, South Vietnam, a province adjacent to the Vietnamese-Cambodian border, on 25 November, the year of Earth Goat (15 January 1920). He was the eldest son of Eminences Huynh Cong Bo and Le Thi Nham, one of the best-known families for their generosity and credibility in the local community. In childhood, having completed His primary schooling, He had been frail, thus left school for convalescence. From 15 to 1́8, He never recovered no matter how good His treating physician was.
In 1939, He proved fully enlightened after He guided His Father on a pilgrimage to That Son The cluster of several mountains, nicknamed Seven Mountains well-known for their sacredness and often mentioned in the Master’s writings and Bokor Mountain, both famous for holiness and magnificence. On 18 May 1939, the Earth Rabbit Year, He launched His mission. He started off with faith healing. He healed many hardly curable diseases, with His incredibly simple methods, e.g. the use of tree leaves, freshwater, the yellow paper, that impressed both Oriental and Occidental physicians and warlocks.
In conjunction with healing, He went preaching far and wide, and His speeches were highly eloquent. Poets, writers, lawyers, and the like, who, on hearing His reputation, wanted to test His intelligene and knowledge, all acknowledged that He was a supernatural.
Since 1939, He composed a lot of stanzas, in which He predicted the impending war would be rampant and catastrophic, and called upon everyone to repent, renounce bad and do good, fulfill their Four Great Debts of Gratitude, to meditate, to cultivate virtues so that they can become good humans and enter the miraculous Way.
For His messiah misson, people remarked that, He had cured myriad critical conditions with simple methods, and He delivered thousands of dharma sermons to the broad masses. Besides, He composed Six Volumes of Oracular Stanzas witth hundreds of poems, proses, mantras, a trove of literature invaluable for the contemporary Vietnam. Steeped in Vietnamese folklore, His writings are vernacular, concise, and engaging. He wrote easily without drafting.
It is owing to these worthwhile religious renewals that, within a short period of time, He had attracted about two-million followers in South Vietnam and they continued expanding by the day.
Because of its extraordinary admiration among the masses, the current authorities started to pay closer attention to the abnormal expansion of this religious movement, therefore they applied a series of political measures to restrict it. As a result, He was put under surveillance at the Nhon Nghia commune, Can Tho.
Here, He was even better known than before, prompting colonial authorities to institutionalize Him in the Cho Quan hospital (Saigon). Later, He was moved to Bac Lieu till 1942.
When the Japanese were involved in the Indochina affairs during the late Second World War, they forcibly transferred Him back to Saigon, at the Japanese Kempeitai headquarters. Here, He waited for the right time to assume the country’s responsibility. Then, He composed a pair of sentences to express His ordeal.
Zhang XianZhang Xian here is Zhang Fei who was a Chinese military general and politician serving under the warlord Liu Bei in the late Eastern Han dynasty and early Three Kingdoms period of China. Zhang Fei and Guan Yu, who were among the earliest to join Liu Bei, shared a brotherly relationship with their lord and accompanied him on most of his early exploits takes refuge in Han dynasty but is not Han’s subject,
Kwan De Guan Yu played a significant role in the events leading up to the end of the Han dynasty and the establishment of Liu Bei’s state of Shu Han during the Three Kingdoms period. While he is remembered for his loyalty towards Liu Bei, he is also known for repaying Cao Cao’s kindness by slaying Yan Liang, a general under Cao Cao’s rival Yuan Shao, at the Battle of Boma. After Liu Bei gained control of Yi Province in 214, Guan Yu remained in Jing Province to govern and defend the area for about seven years. In 219, while he was away fighting Cao Cao’s forces at the Battle of Fancheng, Liu Bei’s ally Sun Quan broke the Sun–Liu alliance and sent his general Lü Meng to conquer Liu Bei’s territories in Jing Province. By the time Guan Yu found out about the loss of Jing Province after his defeat at Fancheng, it was too late. He was subsequently captured in an ambush by Sun Quan’s forces and executed resides at Cao cao’s but he is not His servant.”
The reason why the Japanese wanted to ingratiate Him is because they intended to win over the popular support from His massive following, of whom they could take advantage later. However, as a shrewd person, Lord Huynh would never let them implicate Him in their preparations against the Allies.
After the coup d’état the event in which the Japanese army overthrew the French colonial government in the Indochinese countries, Vietnam, Cambodia and Laos of 9 March 1945, He kept a very reserved attitude as He had certainly known in advance that the Japanese would sooner or later lose their war. Then, He made a humorous prediction: “The Japanese could not eat up the whole chicken.” That was proven! The Year of Rooster perfectly matched the year of 1945, which has finished no sooner than Japan’s fate had been sealed.
In 1945, ‘Filled with compassion for masses on the verge of calamity,’ He stood out for national salvation by setting up the Union of Buddhist Organizations in attempts to unify all the current Buddhist denominations and the Alliance for Vietnam’s Independence to campaign for national independence.
After the Japanese Emperor’s unconditional surrender to the Allies, Vietnam had to fall into an anarchic period. The Vietnamese people feared the return of the status quo in which they would remain slaves, except for who would be their new master. Thus Master Huynh tried to unify His fellow political and religious leaders to establish the National United Front and the Campaign for a stronger voice with the international community for an Independent Vietnam.
However, this entity was soon annexed by the Viet Minh, for which Lord Huynh himself was one of the earliest representatives in South Vietnam.
Given that Ho Chi MinhAn historical personage of Vietnam who led the Third International in the anti-colonial resistance movement’s impolitic policy through the Treaty of 6 March 1946 facilitated the French re-colonialization of Vietnam, Master Huynh linked up with non-communist leaders to found the National Front of Coalition.
The masses enthusiastically supported this Front which, as yet, was disbanded by the dictatorial Viet Minh. The latter set up the Union of Vietnam’s People instead to camouflage the red nuance of their Third International, and to brainwash the masses from the bloody suppression by Communist generals in late 1945. In 1946, for the sake of unity among the different strata of his compatriots, He agreed to take part in the Administrative Commission as a Special Commissioner.
In the meantime, He linked national fighters and all Hoa Hao Buddhists together under the Party for Social Democracy that He established on 21-09-1946, to foster social justice and democratisation of Vietnam. He was not only a sagacious religious revolutionary but also a highly talented political leader. Through His initiative and wording of the Party’s Declaration and Programs, both His contemporary opponents and the most difficult critics should regard Him one of the most progressive reformists.
Apart from consolidating domestic affairs, He sent people overseas while combining with exiled national revolutionaries to establish the National United Front.
The National solution was also inspired by Himself and fugitive revolutionaries in undertakings that have existed until today. As His directions ran counter to the Communist doctrine, threatening to break down Atheism, so have the Communists made repeated attempts on his life.
By early 1947, in the Western region, Hoa Hao Buddhists protested against the autocratic Viet Minh commissions for imposing their dictatorial style of operation on mass organizations and movements. To avoid fratricide, Lord Huynh returned to Southwestern Vietnam in bona fide to calm down the Hoa Hao Buddhists while trying to reconcile them with the Viet Minh for the sake of more effectively fighting the colonialist.
But, on 25 February, Fire Pig (16 -04-1947), the Viet Minh tried to harm Him at Doc Vang Ha, Dong Thap.
Since then, no one heard any further about Master Huynh, but all Hoa Hao Buddhists hold the firm belief that the Communists had never succeeded in harming Him. And all His followers are convinced that their Master should return one day, in the greatest of His glory.
The following guidebook, “Essentials Guide to Practice” (in the Vietnamese language) was published over 300 times, up to 800,000 copies. It is a succinct summary of what a Hoa Hao Buddhist needs to know for daily practice.
Hoa Hao Sacred Site, 1 January 1966,
The Central Religious Propagation Commission
The Hoa Hao Buddhist Congregation (Term I, 1964 – 1966)
Kind regards,