Rước xuân năm mới tiếng đì-đùng,
Cờ phất trẻ mừng chúc cội thung.
Áo quần lòe-loẹt đi cùng xóm,
Bánh trái dẫy-đầy nỗi cúc-cung.
* * *
Chúc mừng năm mới, mới buổi qua,
Bỏ bớt dị-đoan, chẳng cúng gà.
Tre nêu phơ-phất không còn thấy,
Ra mắt tiêu-mòn bữa thứ ba.
* * *
Kỷ-Mão năm nay đã hết rồi,
Tâm-thần hoài-tưởng chuyện xa-xôi.
Đạo mầu Nam-địa càng thâm diệu,
Dẫn-dắt nhơn-sanh cũng chửa rồi.
* * *
Bước qua năm mới, mới mừng à !
Khuyến-khích dân tầm Đạo Thích-Ca.
Tự-giác, giác tha, Ta phải nói,
Hỡi người dương-thế, bớt xa-hoa.
* * *
Xa-hoa năm mới, mới khổ à !
Dân chớ chần-chờ, chớ bỏ qua.
Đạo-lý xem tường âu mới hãn,
Rán tìm cặn-kẽ nỗi Ma-ha.
* * *
Năm Thìn bước tới thiệt là rồng,
Nanh gút vẫy-vùng nỗi long-đong.
Chiến-tranh thảm-khốc toàn lê-thứ,
Lo nỗi đói đau giống Lạc Hồng.
* * *
Canh-Thìn bước tới hỡi dân ơi !
Thế-giới đao-binh ruột rã-rời.
Khốn-nguy đa sự chào xuân mới,
Dân-chúng hoàn-cầu khó thảnh-thơi.
***
Phi phi bỗng xuất mặt Huỳnh,
Dụng lối Bá-Nha réo Lạc Hồng.
Chạnh cám cha con còn chẳng biết.
Phải nhờ đạo-đức mới tường thông.
* * *
Phần Ta thương chúng luống âu-sầu,
Bôn Bắc tẩu Nam cam khổ rối,
Nhưng vì bổn-phận phải toan âu.
* * *
Con người Ngươn Hạ mấy nhiêu hơi,
Đạo-đức nhiệm-mầu chẳng có chơi.
Lê-la chậm bước đàng bụi gió,
Phải sớm lánh xa khỏi cuộc đời.
* * *
Mãnh hổ đâu đua chí tang-bồng,
Rạng mày nở mặt với non sông.
Quân-tử Thánh-nhơn ghi Nhược Thủy,
Cơn buồn chấp bút chuyển huyền-thông.
* * *
Hòa-Hảo, ngày 28 tháng chạp Kỷ-Mão.
(Chép theo bản chánh do Ông Nguyễn-Chi-Diệp giữ)
1. Từ điển trích dẫn. Cũng gọi là ‘xuân’.
(Danh từ) Cây “xuân”, thân cao ba bốn trượng, mùa hè ra hoa trắng, lá non ăn được, gỗ dùng làm đàn. § Tục gọi là “hương xuân” 香椿. Trang Tử nói đời xưa có cây xuân lớn, lấy tám nghìn năm làm một mùa xuân, tám nghìn năm làm một mùa thu.
2. (Danh) Chỉ phụ thân (cha), như: “xuân đình” 椿庭 cha, “xuân huyên” 椿萱 cha mẹ.
3. (Hình dung từ) Cao tuổi, thọ. Như: “xuân thọ” 椿壽 trường thọ.
Ghi chú: Tục đọc là “thung”. Từ điển Thiền Chửu: Cây xuân. Ông Trang tử nói đời xưa có cây xuân lớn, lấy tám nghìn năm làm một mùa xuân, tám nghìn năm là một mùa thu, vì thế người ta hay dùng chữ xuân để chúc thọ. Nay ta gọi cha là xuân đình 椿庭 cũng theo ý ấy. Tục đọc là chữ thung. Từ điển Nguyễn Quốc Hùng Cúi mình làm lễ — Chỉ sự hết lòng. Còn nói là Cúc cung tận tuỵ.
CHÚ GIẢI: Cây Nêu; Kỹ Mão; Ma-Ha
Cây Nêu: (maypole) được dựng lên trong những ngày để đuổi tà quỷ theo truyền thống mừng tết ngày xưa. Nguồn gốc, ý nghĩa và nghi thức dựng cây Nêu trong ngày Tết (archives.org.vn)
Kỹ Mão: Mão là môt trong mười hai con giáp, khi ghép với ‘kỷ’ một trong mười chi, trở thành một trong sáu mươi biểu tượng của chu kỳ âm lịch. Vậy tính theo chu kỳ thì KM nghĩa là 1939 Tây-lịch.
Ma-Ha: dùng như một danh từ chung có nghĩa là sự lớn lao, biểu tượng cho sự hùng tráng, quy mô, cũng đồng nghĩa tính khí cao thượng, tâm địa bao dung, cao thượng. Khi được dùng như một tiếp đầu ngữ (prefix) đứng trước danh từ, nó bổ nghĩa cho danh tứ đó, nên trong Phạn Ngữ thì Maha thường thấy tiếp đầu ngữ này ghép vào danh từ và tiếng Việt dịch ra là Đại, như Mahayana, Đại Thừa, Mahathema Bodisattva, Đại Thế Chí Bồ Tát.
Mặt Huỳnh:
Mặt Huỳnh: Huỳnh là họ Huỳnh, là họ của Đức Huỳnh Giáo Chủ, còn Phi Phi chỉ Rồng bay, đây nói tới Long’ nghĩa là rồng. Ẩn ý của hai chữ này Đức Thầy ra đời chẳng khác nào một con rồng vàng vì Huỳnh trong tiếng Việt cũng có nghĩa là Vàng. Rồng vàng là biểu tượng của vua chúa, nên các đền đài vua thường chạm trổ rồng vàng. Đức Huỳnh Giáo Chủ ra đời nhằm an bang định quốc, nhưng vì thời cuộc chưa cho phép và vì nghiệp chướng của chúng sanh còn quá nặng, nên dù có thần thông quảng đại, ngài cũng không làm gì được nên trong bài Sứ Mạng do ngài viết, ngài nói ‘ta là một trong những vị cứu đời đó’ nhưng đứng trước cảnh thế giới đầy dẫy đao binh, khói lửa, ngài nói: “ta đây tuy không thể đem phép huệ linh mà cứu an tai họa chiến tranh tàn khốc do loài người tàn bạo gây nên……”
CHÚ GIẢI: Tang Bồng; Huyền Thông
Tang bồng: vốn là cách nói tắt của “Tang hồ bồng thỉ”. “Tang” là dâu, “hồ” là cung, “tang hồ” là cung bằng gỗ cây dâu. “Bồng” là “cỏ bồng”, “thỉ” là “tên”, “hồ thỉ” là tên bằng cỏ bồng. Tang hồ bồng thỉ, nghĩa là cung làm bằng gỗ dâu, tên làm bằng cỏ bồng. Tục truyền, ngày xưa ở Trung Quốc, hễ đẻ con trai thì dùng loại cung tên này bắn sáu phát; bắn bốn phát ra bốn hướng, một phát lên trời, còn một phát xuống đất. Ngụ ý của việc làm này là sau này trưởng thành, người con trai sẽ mang chí lớn “hai vai gánh vác sơn hà”, tung hoành dọc ngang giữa trời đất. Với nghĩa ấy, “tang bồng” thường kết hợp với các từ như “Chí tang bồng”, “nợ tang bồng”. Thành ngữ “thoả chí tang bồng” hay là “phỉ chí tang bồng” dùng để chỉ sự thoả mãn, tự do trong hành động nhằm thực hiện chí lớn, không chịu bất kỳ một sự gò bó, ràng buộc nào.
https://www.sachhayonline.com/tua-sach/giai-thich-thanh-ngu-tuc-ngu/thoa-chi-tang-bong/1834
Từ điển Nguyễn Quốc Hùng Tên sông ở Tây-vực, tương truyền là nơi tiên ở. Td: Non Bồng nước Nhược ( Bồng sơn Nhược thuỷ ) là chỉ cõi tiên. Hát nói của Dương Khuê có câu: “ Chẳng Bồng lai Nhược thuỷ cũng thần tiên, rõ ràng đệ nhất nam thiên”.
Huyền Thông: Huyền ám chỉ sự bao la, huyền bí, không thể nghĩ bàn được, nhưng có ảnh hưởng vô cùng lới đến sự vận hành của trời đất. Thông nghĩa là sự hiệp thông, sự trải nghiệm của sức mạnh siêu hình đó đến con người và được hiểu như là gạch nối giữa con người và thế giới siêu hình.
Đức Thầy viết lên những câu thơ trên để nói lên sự hiệp thông giữa ngài và Trời Phật mà ngài đã vâng lệnh để cứu vớt quần sanh đời Mạt Pháp. Nên ngài nói:
“Trong Sám Giảng nếu ai không hiểu,
Tầm kệ này Ta dẫn nẽo đường.”
(47-48, Quyển IV, Giác Mê Tâm Kệ)
The New Year is greeted with firecrackers,
All the juniors congratulate their seniors.
Pageants wiggle through the village,
Filled with fruit, cakes, and kowtowers.
* * *
Happy New Year. comes the new era,
Stop superstition and chicken offer.
No more are the flapping poles of Tet,
On the third day, the festivity is quieter.
* * *
This Earth Rabbit year has gone,
I keep thinking of stories beyond.
In the South, the Tao grows abstruse,
My mass-guiding mission is still on.
* * *
Transit to the New Year is a jubilee!
I urge you to seek the Tao of Shakyamuni.
Enlighten yourself and others, I must say,
Dear worldlings, give up prodigality.
* * *
The prodigal New Year, a new misery!
Don’t procrastinate, but take it seriously.
Peruse the Tao, and you may comprehend it,
You get the Ma-ha if you give it scrutiny.
* * *
The coming Dragon Year is a real dragon,
Swirling its fangs to spread confusion.
The dreadful war covers the whole planet,
Lest famine should afflict the Lac Hong.
* * *
The Water Dragon arrives, my folks!
Global hostilities make Me distraught.
Woeful things greet the new Spring,
Peace and freedom all over fall short.
* * *
Afloat appears the Golden Dragon,
Using Bo Ya-styled appeals to the Lac Hong.
Even fathers and sons can’t see each other,
They get insightful through virtue paragon.
* * *
For the love of the masses, I am sad,
The folks don’t know the intricate trek.
Going North and running South is harsh,
But, for My duty, I must anticipate.
* * *
Precarious is the Lower Age’s human life,
The great Tao should not be brushed aside.
So lagging you suffer from stormy dust,
Hasten out of the temporal plight.
* * *
Like fierce tigers, achieve your manly goal,
You can shine with your land and people.
Gentlemen and Saints head for the Idyllic,
In sadness, I share Heaven’s portal.
* * *
Hoa Hao, 28 December, Wooden Rabbit (1939)
(Copy of the original in Mr. Nguyễn-Chi-Diệp’s store)