A. THỜI NIÊN THIẾU VÀ TRƯỞNG THÀNH:
Cá Tánh và Hoài Bảo
Ông Huỳnh Thạnh Mậu (mà người ta thường kêu là Sáu Mậu hay Út Mậu) sanh ngày mùng 10 tháng 2 năm Ất –Sửu (1925) tại thôn Hòa Hảo, thuộc quận Tân-Châu, tỉnh Châu Đốc.
Thiên Tư
Ông Mậu là người có một thân hình mảnh khảnh, không thấp không cao, gương mặt cương-quyết tuy vui vẻ trẻ-trung đôi mắt sáng trong và cặp môi duyên-dáng. Ông có tánh thông-minh khác thường nên học điều gì cũng mau nhớ hơn người, mà thấy ai làm chuyện gì cũng làm theo y hệt. Thuở nhỏ, có lần Ông đi xuống Chợ-Đình (Hòa-Hảo) coi Sơn-Đông mãi võ. Khi về nhà, Ông ra sân diễn lại “lớp” ấy một cách vừa hay-ho, vừa giống y điệu-bộ cũng như âm-giọng, làm cho Đức Ông và Đức Bà tức cười nôn ruột.
Đã thông-minh Ông Mậu lại còn là người có tánh dạn-dĩ, không rụt-rè nhút-nhát, nói năng hoạt-bát mà dịu-dàng, và nhứt là có một tấm lòng bác-ái vị-tha đáng kính…
Quá Trình Học Hỏi
Ông Huỳnh Thạnh-Mậu lúc 8 tuổi đã biết rành chữ quốc-ngữ. Nhưng vì ở trong một gia-đình chịu ảnh hưởng Nho-Giáo nên khi lên 9 tuổi ông lại phải đi học chữ Hán. Ông nhập-môn (Nho học) tại trường của Ông Thầy Bảy Ngàn ở phía trên chợ Mỹ-Lương (Hòa-Hảo) một đỗi. Sau đó, ông lại từng học với Thầy Ba Đạo, rồi với ông Mười (ở Hòa-Hảo). Sau rốt, ông đến thọ giáo với Thầy Hai Chức tại Phú An. (mất chữ…) là người có thiên-tư sáng-suốt nên ông (mất chữ…) đủ các sách MINH-TÂM và TỨ-THƠ (1). Ông lại sang qua học nghề thuốc Bắc là môn Đông-y cổ-truyền. Ông đã học chẩn mạch rành-rẽ, nhưng vì thời-cuộc biến-chuyển nên năm 1939 ông buộc lòng phải ngưng y-học trong lúc sắp thành tài.
Năm 1943, ông lên Sài-Gòn và tiếp-tục học. Nhưng lần này ông không học chữ Hán, mà lại học chữ Nhựt. Không bao lâu ông nói rất rành và viết rất đúng tiếng Nhựt. Ai ai cũng nhận thấy rằng ông là một người học trò sáng dạ và dạn-dĩ nhứt. Các bạn học của ông thường nhắc câu chuyện dưới đây, đã xảy ra khi ông mới học tiếng Nhựt. Một hôm, khi giờ học đã mãn, ông Mậu ra đường gặp một sĩ-quan Nhựt, ông không ngần-ngại chận viên sĩ-quan ấy lại và nói toàn tiếng Nhựt. Các anh em bạn học của ông rất ngạc-nhiên vì họ tự hỏi: Ông Mậu mới học tiếng Nhựt đây mà sao lại nói mau lẹ như thế?! Giữa ông và viên sĩ-quan Nhựt lời qua tiếng lại một hồi, bỗng nhiên ông Mậu không nói nữa. Viên sĩ-quan chẳng hiểu tại sao ông Mậu không thèm trả lời mà chỉ gật đầu rồi bỏ đi. Các bạn ông cũng vậy. Ông bèn cười xòa và nói: “Học được mấy chữ thì đem ra nói hết mấy chữ đó rồi thôi, không nói nữa, chớ có ai rầy la gì mà sợ!”
Trong thời-kỳ đi học, ông phải sống một cách hàn-vi, mặc dầu ông là bào-đệ của ĐỨC THẦY. Tuy đã được 21 tuổi, nhưng ông Huỳnh Thạnh-Mậu chưa chịu lo bề gia thất, vì ông cho rằng cái tuổi thanh xuân của ông còn phải đem giúp ích cho đời, chớ nếu sớm tính việc thê-hoa thì làm sao lo tròn sự “tang bồng hồ thỉ nam-nhi trái?” Thế là ông chỉ nghĩ đến một gia đình thôi, ấy là đại gia-đình Việt-Nam vậy… Nhưng, để bù đắp vào sự thiếu-thốn ấy, ông có xin một đứa con nuôi, mà đứa con nuôi ấy chính là kẻ viết thiên tiểu-sử này vậy.
Việc Xin Con Nuôi:
Nguyên nhân là trong khi theo đuổi việc học-vấn tại Sài-Gòn, và mặc dầu lúc ấy nhà đương-cuộc Pháp ra lịnh truy-nã ông rất gắt, nhưng lúc nào ông cũng nhắc-nhở đến tôi, một đứa cháu kêu ông bằng chú. Ông thường nói rằng:
“Thiếu-niên là những mụt măng, nếu ta khéo vun-quén uốn-nắn thì sau này chúng nó sẽ là rường-cột của nước nhà. Tôi có một đứa cháu trai học-thức cũng khá. Với sự hiểu biết của nó, nó có thể giúp ích đời, nhưng tiếc vì nó còn nhỏ, trí còn non, mà lại ở trong gia-đình có nghịch cảnh. Biết đâu vì nghịch cảnh ấy, vì trí non-nớt ấy, nó sẽ phán-đoán sai lầm rồi đâm ra liều-lĩnh và sa vào hầm-hố truy hoan thì uổng lắm! nếu có dịp tôi sẽ đem nó theo bên cạnh tôi để chỉ-bảo…”
Một bữa nọ, Đức Ông kêu tôi lại hỏi:
“Ông thường nghe nói chú út cháu nhắc-nhở đến cháu luôn, và có ý muốn bảo-trợ, chỉ-dẫn cho cháu nên người hữu-dụng sau này. Vậy cháu nghĩ sao?” –
-Thưa ông, nếu chú út có lòng tốt như vậy thì con rất lấy làm hữu hạnh. Nhưng biết chú út ở đâu mà tìm cho gặp?
– Cái đó không khó. Nếu cháu muốn như vậy thì đây, ông cho cháu cái giấy giới-thiệu và tiền lộ-phí. Phải coi y theo giấy đó mà tìm. Người ta thì khó, chớ có giấy của ông thì dễ lắm. Ông chỉ giúp cho gặp chú út cháu thôi. Khi gặp rồi thì có chú út cháu đó nó sẽ tính cho”.
Trời đã về chiều. Ông Huỳnh Thạnh-Mậu ngừng xe mô-tô nơi nhà trọ. Vừa vui mừng vừa ngạc-nhiên, ông vội-vã hỏi tôi:
“Ủa, Dữ! Sao cháu biết chú ở đâu mà tìm? – Thưa chú, có giấy của Đức Ông chỉ dẫn.
– À! Phải. Thôi lên đây chú nói chuyện cho mà nghe”.
Rồi đó, ông tiếp:
“Chú cũng như cha. Mà chú thấy Dữ không ai huấn-luyện, chỉ-dẫn thì chú lấy làm thương hại. Vậy nếu Dữ bằng lòng nhận sự chỉ-bảo của chú thì chú sẽ xin Dữ làm con nuôi để chú dưỡng nuôi dạy bảo cho Dữ nên người. Vậy Dữ vui lòng hay chăng chớ chú không ép!
– Thưa chú, việc ấy cháu rất bằng lòng. Nhưng làm thế nào bây giờ? Bởi vì, dầu sao cháu cũng còn là một đứa con trong gia-đình cháu, thì biết Tía cháu có nói gì không?
– Như vậy thì Dữ đã bằng lòng. Ngày mai cháu cứ ở tại đây chờ chú, đến chiều chú sẽ về”.
Sớm tinh sương, ông Huỳnh Thạnh-Mậu xách cặp ra đi, không biết là đi đâu. Đến chiều bữa sau ông mới về. Ông chưa vô đến cửa là tôi đã nghe tiếng ông cười. Liệng cái cặp trên bộ ván, ông vồn-vã vỗ đầu tôi và nói:“Tất cả mọi việc đều xong-xuôi!
– Chú nói gì, cháu không hiểu? Mà chú đi đâu tới bữa nay mới về?
– Chú đi về nhà cháu chớ đi đâu? Chú đã gặp Tía cháu, chú giải-thích cho Tía cháu hiểu mọi lẽ. Rốt cuộc, Tía cháu bằng lòng cho đứt cháu cho chú làm con nuôi. Vậy bắt đầu từ nay, cháu là con của chú vậy! Nhưng, còn điều này: Đã đành từ nay cháu là con của chú. Nhưng xét ra chú cũng không lớn hơn cháu bao nhiêu tuổi. Vậy, về bên trong thì chú cháu cứ kêu chú bằng chú như thường, vì chú cũng như cha vậy”.
Thế là bắt đầu từ ngày ấy, trên bước đường tranh-đấu của ông Huỳnh Thạnh-Mậu, những lúc xa quê-hương xứ-sở xa người quyến-thuộc mến-yêu, ông được an-ủi với đứa con nuôi ở bên mình, vui chung hưởng, buồn chung lo. Trong quãng đời ấy, ông có cho tôi vào học tiếng Quảng-Đông ở trường Huê-Kiều, tại Long Xuyên. Nhưng vì thời-cơ không thuận tiện nên tôi không tiếp-tục sự học như ý muốn được.
Một ngày nọ, ông Huỳnh Thạnh-Mậu kêu tôi lại dặn:
“Dữ phải ở lại Saigon! Cháu cứ noi theo anh em người ta đó mà làm việc, và cần nhứt là phải làm việc phụng-sự cho Đất-Nước. Tuy chú vắng mặt nhưng không sao, sẽ có ĐỨC THẦY dạy bảo cho…”
– Còn chú đi đâu, lại không đem cháu theo?!
– Đành rằng lúc nào chú cháu mình cũng không thể xa nhau. Nhưng nay cháu phải nghe lời chú, ở lại đây đi! Chú về Cần-Thơ vì có sứ-mạng quan-trọng lắm, không thể đem cháu theo được!”
Thế rồi ông từ giã ra đi, đi không trở lại…
———————————————————————————
(1) Hai cuốn kinh bằng chữ Hán Nôm rất phổ biến được dùng làm sách giáo khoa cho các học trò nhỏ trong xã hội cổ truyền Trung Hoa và Việt Nam.
A.-FORMATIVE YEARS: PERSONALITY TRAITS
Mr. Huynh Thanh Mau (also called Six Mau or Little Mau) born on the 10th of Lunar February, 1925 (Wood Ox), at Hoa Hao hamlet, Tan Chau district, Chau Doc province. ̣̣He was the brother of Lord Master Huynh Phu So, the founder of Hoa Hao Buddhism.
Personal Attributes
Mau was slender and average-built, shiny-eyed, and charming lipped. He presented as a firm yet humorous and likeable personality. He was exceptionally intelligent, thus he was a quick learner compared to others, as he picked up very well what they’ve done. Once upon a time as a young teenager, he went to Cho Dinh (Hoa Hao) watching a martial art show of Son Dong medicine peddlers. When he returned home, he went out on the courtyard and replayed exactly what he saw in all its aspects, giving His Eminent Parents a very good laugh. Besides, Mau was a bold, brave, articulate and yet soft-spoken, standing out as a highly kind person.
Education
At eight, Mr Huynh Thanh Mau was fluent in Quoc Ngu (national language). But, due to growing up in a Confucian family, when he was 9 years old, he must also study the Han language (Chinese-Vietnamese). He initiated to Ruism at the school of Master Bay Ngan located at Mỹ Lương (Hoa Hao). Finally, he initiated with Master Hai Chuc at Phu An. He was endowed with perspicacity, therefore he was well-versed in Minh Tam and Tu Tho (1) sutras. He went on to learn Thuoc Bac (Northern Medicine), aka Traditional Eastern Medicine. He quickly grasped how to diagnose but, because of a social change, in 1939 he forcibly ceased learning medicine when he was going to graduate.
In 1943, he went to Saigon and continued his studies. But on this occasion, he did not studied Han, but Japanese. Soon afterward, he spoke and wrote fluent Japanese. Everyone recognized that he was one of the brightest and boldest students. His classmates often recited this story which happened when he just studied Japanese. One day, when his class was over, Mau met a Japanese officer on street, and he did not hesitate to stop this officer and spoke Japanese entirely. His classmates were amazed pondering: Mau just learnt Japanese not long ago, why did he know how to speak so well?! The conversation between him and the Japanese officer took place a while, and suddenly Mau stopped talking. The officer did not know why Mau did not bother to answer, nodded and quit. So did his classmates. He chuckled and said: “I’ve learnt that many, when I’d used them up, I stopped speaking. No one should blame me and why did I fear?!”
During his schooling, he led a frugal life, even though he was the brother of Lord Master. Even at 21, Mau has not yet wanted to have his own family because he thought that his young age should be still offered to the society. If he intends to set up his family early, how can he take care of “Tang Bong Ho Thi Nam Nhi Trai? (the young man’s obligation to serve his country)”. Thus he only thought of one family, that is, the great family of Vietnam…..However, in response to this shortage, he would adopt a son, and it is this adoptive son who now is the writer of this biography.
Adoption
The story is that, when pursuing his studies in Saigon, and though French authorities ordered to track him down, he always spoke about me, a nephew who called him ‘uncle’ (paternal side). He often said: “The teenagers are bamboo shoots which, if well-looked after, will later be the country’s pillars. I have a nephew who had a rather good education. With this he could help the society. Unfortunately he was still young, nascent, and unhappy familywise. I don’t know if this unhappy circumstance might prompt him to misjudgingly take risks and to fall into trappings of self-pleasuring, that’s a big waste! If I have a chance, I will keep him by my side for guidance…”
One day, His Eminence Father called me over and asked:
-I often heard your little uncle always mentioned you, and meant to sponsor and develop you into a useful person in future. So what do you think?
-If Little Uncle had such a good intention, I will be very happy, my Great Uncle. But where can I find Little Uncle? I Replied.
-This is very easy. If you want, here I give you this introduction letter and travel expenses. Follow this instruction and act. Others’ papers are difficult, but mine is too easy. I only help you meet Little Uncle. By then Little Uncle will work out for you.
Toward the evening, Mr Huynh Thanh Mau stopped his automobile at an inn. Both excited and astounded, he hastily asked me: -How strange, Dzu! Why did you know me stay here to find?
-My uncle, His Eminence Father gave me the note.
-Ah! Correct. By the way you come here for me to talk about it.
Then he added: “Uncle is like father. I see Dzu having no one to train, guide, therefore I commiserate. Thus if Dzu agree for me to guide you, I’ll apply for your adoption so that I can turn you into a good person. It’s up to you to choose. I don’t push you!
-My Uncle, I’m very happy about it. But what can I do now? ‘Cause I’m still a child with a family and I don’t know if my Dad wants to say anything on it?
-Tomorrow, you’ll stay here to wait for me, and I’ll return in the evening.
At dawn, Mr Huynh Thanh Mau left with a handbag, and I didn’t know where he went. The following evening he returned. No sooner had he entered the house than he laughed. Throwing the handbag on a divan, he hastily patted my head and said:
“All done!”
-What did you say? I didn’t understand. And where had you gone until today?
-I’d gone to your house, nowhere else I went? I’ve met your father and explained to him everything. Eventually, he agreed to give you away for my adoption. Thus from now on you are my son. But I reflect: I am not much older than you. So, inside you can call me as (younger) uncle as usual, ‘cause uncle is like father.
From that day on, on his revolutionary way, each time he was far removed from home and his beloved relatives, he had a consolation with his adoptive son by his side, sharing his sadness and joy. During this period of time, he let me study Cantonese at an overseas Chinese school, Long Xuyen. But for the course of events was not suitable, I did not continue it as expected.
One day, Mr Huynh Thanh Mau called me and recommended:
-Dzu must stay back in Saigon! You can learn how to act from our buddies. Most importantly you devote your heart to the country. Though I am absent, it does not matter, for there’ll be Lord Master’s guidance…
-Where do you go, why don’t you take me with you?!
-For sure, uncle and nephew, we won’t by no means be eparated. But now you must listen to me and stay here! I go back to Can Tho for a very important task, and I can’t take you with me!
So he said goodbye and never came back…
——————————————————————————–
̣(1) Two books in the Han language titled 明心宝监 and 四诗, which, in the traditional Vietnamese and Chinese societies, were specially recommended for the young children to learn as the basics of their education.