Phật Giáo Hoà Hảo Úc Châu

TÔN CHỈ HÀNH ĐẠO PHẦN I

PRACTICE ESSENTIALS I

Lời Nói Đầu của Đức Thầy

 

Năm năm trường xa cách, cái chánh sách áp bức tôn giáo gắt gao của người Pháp làm cho tôi không được gần-gũi các người hầu giải bày tường tận tôn chỉ hành Ðạo của tôi.

 

 

Ấy không phải vì tôi cố ý muốn xa-lánh các người, song chẳng qua vì sự bắt-buộc của kẻ cường-quyền nên tôi và các người không được trực-tiếp cùng nhau. Tuy nhiên cũng có lắm thiện-nam tín-nữ rất trung-thành, một lòng gìn Ðạo. Nhưng gần đây có vài kẻ hiểu lầm, hành-động một vài điều không hợp với tinh-thần đạo đức, trái chủ-nghĩa từ-bi bác-ái và sự cao-thượng của giáo-pháp nhà Phật. Thế nên điều ấy làm cho quyển sách nhỏ nầy ra đời.

 

 

Vậy từ nay trở đi tôi ước mong rằng với vài điều sơ-lược kể ra sau đây, toàn thể thiện-nam tín-nữ trong Ðạo sẽ dùng trí-tuệ mình, suy gẫm gìn-giữ ăn ở theo quy-tắc đã định, đặng tránh những việc đáng tiếc xảy ra, hầu giữ tròn danh-giá của Ðạo Phật. Như thế chẳng phụ công ơn của Ðức Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni đã khai sáng Ðạo Phật và đã dìu-dắt quần-sanh tầm đường giải-thoát.

 

 

Nam-Mô Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật.

 

 

HÒA HẢO

 

Prelude by Lord Master


For five years of our separation, the French policy of  harsh religious suppression has prevented me from to stay close to you to expound on my guiding principles of practice.


It is not because I deliberately wanted to distance from you, but it is because the rogue authority has prohibited our direct interaction. Although many of our fellow adherents are very devoted and unwavering in safeguarding their Faith, some of them have recently misunderstood and do not act consistently with the Buddhist tenet of compassion and generosity.   In this sense, this booklet was produced.


Thus, from now on, I expect that the following account of essentials would help all our fellow adherents exercise their acumen, contemplate and observe the already made code of conduct in order to shun deplorable events and to preserve the moral integrity of Buddhism. Thus, you will not be ungrateful to Lord Master Sakyamuni Buddha for having founded Buddhism to guide the sentient beings in seeking deliverance.


Namo Our Master Shakyamuni Buddha


HOA HAO

HAI HẠNG TU SĨ


Đây là quyển thứ sáu mà  Đức  Thầy đã viết hồi  Tháng 5 dl 1945 tại Sàigòn.

Đạo Phật từ xưa tới nay luôn luôn phân làm hai hạng người:


1/- Hạng xuất gia.
2/- Hạng tại gia.


HẠNG XUẤT GIA: Gồm có các nhà sư hay những ni-cô đã hoàn-toàn ly-khai với gia-đình, quê hương, bè-bạn, dựa thân vào cửa Thiền hoặc núi non am cốc, hàng ngày chỉ chuyên lo kinh-kệ, săn-sóc cảnh dà-lam, trau luyện đức lành, dồi mài trí-tuệ hầu giảng giải cho bá-tánh thập phương nghe để quay đầu hướng thiện qui-y Phật pháp, không còn thiết đến việc đời. Gia-đình nhà cửa của nhà sư là cả thế gian, thân quyến nhà sư là khắp cả nhân loại đại đồng. Đó là hạng người dốc tu cho mau thành Phật quả thoát kiếp luân-hồi.


HẠNG TẠI GIA: Gồm tất cả đại chúng, tất cả thiện-nam tín-nữ chưa đủ những điều-kiện xuất-gia, vì cảm thấy mình còn nặng nợ với non sông tổ quốc, với gia-đình, với đồng-bào xã-hội, nên chưa thể làm như các nhà sư hay ni-cô đặng. Tuy vậy họ cũng sẵn-sàng hoan-nghinh ca-tụng lý-tưởng từ-bi bác-ái đại-đồng của nhà Phật và luật Nhân-quả do Phật thuyết ra. Thế nên ở tại nhà, họ phượng thờ Đức Phật, phát nguyện qui-y, giữ gìn ít điều giới-luật, hằng coi kinh sách, sửa tánh, răn lòng, ủng-hộ các sư. Như thế họ cũng lần lần lên con đường giải-thoát.

Đây là hạng người “Học Phật Tu Nhân”.


Bàn xét như trên, thấy rằng toàn-thể trong Đạo chúng ta thuộc hạng tại tư gia cư-sĩ, học Phật tu Nhân vậy.


Sách xưa có câu: “Thiên kinh vạn điển, hiếu nghĩa vi tiên” (muôn vạn quyển kinh của Phật, Thánh Tiên đều dạy sự hiếu-nghĩa làm đầu).


Hôm nay đã qui-y đầu Phật, tu-niệm tại-gia, ta hãy cố-gắng vưng lời Thầy, Tổ đã dạy, lo tròn câu hiếu-nghĩa.


TWO CLASSES OF PRACTICER


This is the 6th Volume of the Oracles which Master wrote in May 1945,  Saigon. Since its inception, Buddhism had two categories of practicer:


1 Monastics,

2 Lay Practicer.


MONASTICS: Monks or nuns who have entirely severed ties with families, native town, friends, take shelter at monasteries or hermitages, daily dedicated to sutra learning, caring for meditation sites, to cultivating virtues and acumen, in order to teach to the masses how to repent, take refuge in Buddha – Dharma, no longer to be worldly. Their families and properties appertain to the whole world, their relatives seamless to cosmopolitan humanity. Those are devotees not to transmigrate. 


LAY PRACTICER: They include all the broad masses, male and female adherents not eligible to leave home, feeling still heavily indebted to their country, families, compatriots and society, not yet able to live like monks or nuns. However, they readily uphold the Buddhist ideals of compassion, cosmopolitanism, and law of causality. Thus, at home, they worship Buddha, vow to take refuge, keep a few precepts, keenly read sutras, improve their behavior, and support monastics. As such, they can also progress toward deliverance.


That is the category of Practicer of “Humanistic Buddhism”.

In light of the above, it is obvious that all our faith followers can be called practicers of “Humanistic Buddhism.”


Classics said: “In myriad scriptures, filial piety and righteousness prevail”(In myriad sutras, filial piety and righteousness come first).


Today, once having taken refuge in Buddha as home practicer,  obey Patriarch and Master to accomplish filiality and righteousness.



TỨ ÂN

Đức Phật Thầy Tây An thuở xưa thường khuyến khích các môn nhơn đệ tử rằng: Muốn làm xong hiếu nghĩa có bốn điều ân ta cần phải hy sinh gắng gổ mới mong làm trọn:  

                 1  Ân Tổ Tiên cha mẹ,

                 2  Ân Đất Nước,

                3  Ân Tam Bảo,

                4  Ân Đồng Bào và Nhơn Loại

               (với kẻ xuất gia thân đàn na thí chủ).

 

ÂN TỔ TIÊN CHA MẸ: Ta sanh ra cõi đời được có hình hài để hoạt động từ thuở bé cho đến lúc trưởng thành, đủ trí khôn ngoan, trong khoảng bao nhiêu năm trường ấy, cha mẹ ta chịu biết bao khổ nhọc; nhưng sanh ra cha mẹ là nhờ có tổ tiên, nên khi biết ơn cha mẹ, cũng có bổn phận biết ơn tổ tiên nữa.

 

Muốn đền ơn cha mẹ, lúc cha mẹ còn sanh tiền, có dạy ta điều hay lẽ phải ta rán chăm chỉ nghe lời, chớ nên xao lãng làm phiền lòng cha mẹ. Nếu cha mẹ có làm điều gì lầm lẫn trái với nhân đạo, ta rán hết sức tìm cách khuyên lơn ngăn cản. Chẳng thế, ta cần phải lo nuôi dưỡng báo đền, lo cho cha mẹ khỏi đói rách, khỏi bệnh hoạn ốm đau, gây sự hòa hảo trong huynh đệ, tạo hạnh phúc cho gia đình, cho cha mẹ vui lòng thỏa mãn. Rán cầu cho cha mẹ được hưởng điều phước thọ. Lúc cha mẹ quá vãng, hãy tu cầu cho linh hồn được siêu thăng nơi miền Phật cảnh, thoát đọa trầm luân.

 

Còn đền ơn tổ tiên, đừng làm điều gì tồi tệ, điếm nhục tông môn, nếu tổ tiên có làm điều gì sai lầm, gieo họa đau thương lại cho con cháu, ta phải quyết chí tu cầu và hy sinh đời ta làm điều đạo nghĩa, rửa nhục tổ đường.

 

ÂN ĐẤT NƯỚC: Sanh ra, ta phải nhờ Tổ tiên, cha mẹ, sống ta cũng phải nhờ đất nước, quê hương. Hưởng những tấc đất, ăn những ngọn rau, muốn cho sự sống được dễ dàng, giống nòi được truyền thụ, ta cảm thấy bổn phận phải bảo vệ đất nước khi bị kẻ xâm lăng giày đạp. Rán nâng đỡ xứ sở quê hương lúc nghiêng nghèo, và làm cho được trở nên cường thạnh. Rán cứu cấp nước nhà khi bị kẻ ngoài thống trị. Bờ cõi vững lặng thân ta mới yên, quốc gia mạnh giàu mình ta mới ấm.

 

Hãy tùy tài tùy sức, nỗ lực hy sinh cho xứ sở. Thảng như không đủ tài lực đảm đương việc lớn, chưa gặp thời cơ giúp đỡ quê hương, ta phải rán tránh đừng làm việc gì sơ xuất đến đỗi làm cho nước nhà đau khổ, và đừng giúp sức cho kẻ ngoại địch gây sự tổn hại đến đất nước.  Đó là ta đền ơn cho đất nước vậy.

 

ÂN TAM BẢO: Tam Bảo là gì?   Tức Phật, Pháp, Tăng.

 

Con người nhờ tổ tiên cha mẹ sanh ra nuôi dưỡng, nhờ đất nước tạo kiếp sống cho mình. Ấy về phương diện vật chất.

 

Về phương diện tinh thần, con người cần nhờ đến sự giúp đỡ của Phật, Pháp, Tăng khai mở trí óc cho sáng suốt. Phật là đấng toàn thiện, toàn mỹ, bác ái vô cùng, quyết cứu vớt sanh linh ra khỏi trầm luân khổ hải. Thế nên Ngài mới truyền lại giáo pháp, tức là những lời chỉ dạy cho các chư tăng, đặng đem nền Đạo cả của Ngài ban bố khắp trần thế. Các chư tăng chẳng ai lạ hơn những đại đệ tử của Đức Phật vậy. Bởi vậy, Đức Phật luôn luôn chỉ dẫn và cứu vớt quần sanh thoát miền mê khổ, nên ta hãy kính trọng Phật, hãy tin tưởng và tín nhiệm vào sự nghiệp cứu đời của Ngài, làm theo những điều chỉ dạy do các chư tăng cho biết. Tổ tiên ta đã hiểu rõ sự nhiệm mầu, lòng quảng ái của Phật đối với chúng sanh, để kính trọng sùng bái Ngài, để hành động đúng theo khuôn khổ Ngài đã dạy và đã vun trồng bồi đắp cho nền Đạo được phát triển thêm ra, xây dựng một tòa lầu đài Đạo hạnh vô thượng vô song, roi truyền mãi mãi với hậu thế.

 

Nên bổn phận chúng ta phải noi theo chí đức của tiền nhân hầu làm cho trí tuệ minh mẫn đặng đi đến con đường giải thoát, dẫn dắt giùm những kẻ sa cơ và nhứt là phải tiếp tục khai thông nền Đạo đức đặng cái tinh thần từ bi bác ái được gieo rải khắp nơi nơi trong bá tánh. Như thế, mới chẳng phụ công trnh vĩ đại của Đức Phật và của tiền nhân để lại và không đắc tội với kẻ đời sau vậy.

 

ÂN ĐỒNG BÀO VÀ NHÂN LOẠI : Con người vừa mở mắt chào đời đ thấy mnh phải nhờ đến sự giúp đỡ những kẻ xung quanh và cái niên kỷ càng lớn thêm bao nhiêu, sự nhờ nhi càng tuần tự thêm nhiều chừng nấy.

 

Ta nhờ hột cơm của họ mới sống, nhờ miếng vải của họ mới ấm thân, nhờ cửa nhà của họ mới tránh cơn phong vũ. Vui sướng: ta đồng hưởng với họ. Hoạn nạn: họ cùng chịu với ta.

 

Họ và ta cũng một màu da, cũng nói một thứ tiếng. Ta và họ hợp nhau thì thành lại làm một: ấy Quốc gia đó. Họ là ai? Tức những người ta thường gọi bằng đồng bào vậy.  

 

Đồng bào ta và ta cùng chung một chủng tộc, cùng một nòi giống roi truyền, cùng có những trang lịch sử vẻ vang oanh liệt, cùng tương trợ lẫn nhau trong cơn nguy  biến, cùng chung phận sự đào tạo một tương lai rực rỡ trong bước tiền đồ của giang san đất nước. Đồng bào ta và ta có một liên quan mật thiết, không thể rời nhau, chẳng thể chia nhau và chẳng khi nào có ta mà không có đồng bào, hay có đồng bào mà không có ta. Thế nên, ta phải rán giúp đỡ họ hầu đáp đền cái ơn mà ta đã thọ trong muôn một.

 

Chẳng những thế thôi, ngoài đồng bào, ta còn có thế giới người đang cặm cụi cần lao cung cấp những điều nhu cầu cần thiết. Họ là nhân loại, là những người đang sanh sống với chúng ta trên quả địa cầu. Nếu không có nhân loại, thử hỏi dân tộc ta ra như thế nào? Ta có đủ vật liệu để dùng chăng? Ta có thể tự túc một cách đầy đủ chăng?

 

Nói tóm lại, ta có thể lẻ loi đương đầu với những khi phong vũ nhiệt hàn, với những lúc ốm đau, nguy biến, giữ vững cuộc sống còn nầy chăng? Hẳn không vậy. Thế nên dân tộc ta phải nhờ đến Nhân loại, nghĩa là nhờ đến dân tộc khác và phải biết ơn họ. Hãy nghĩ đến họ cũng như mình nghĩ đến mình và đồng chủng mình (vậy).

Vả lại cái tình từ bi bác ái của Đức Phật mà ta đã nhận thức, rất thâm huyền quảng huợt. Cái tình ấy, nó không bến không bờ, không phân biệt màu da, không phân biệt chủng tộc; nó cũng không luận sang hèn và xóa bỏ hết các từng lớp đẳng cấp xã hội, mà chỉ đặt vào một: Nhân loại Chúng sanh.

Thế nên, ta không có lý do gì chánh đáng để vì mình hay vì đồng bào mình gây ra tai hại cho các dân tộc khác. Trái lại, hãy đặt vào họ một tư tưởng nhân hòa, một tinh thần hỉ xả và hãy tự xem mình có bổn phận giúp đỡ họ trong cơn hoạn nạn.

Đối với những kẻ xuất gia qui y đầu Phật, phụ vào những ân huệ đã thọ như đã nói trên, họ còn phải trực tiếp chịu ân của các đàn na thí chủ, nghĩa là những thiện nam tín nữ có hảo tâm cung cấp những vật dụng cần thiết cho họ. Họ nhờ đến hột cơm, đến miếng vải, đến thuốc men đặng sanh sống. Rốt lại họ phải nhờ đến sự nuôi dưỡng hoàn toàn của những kẻ tốt lòng.

Với quần sanh, họ mang cái ân rất nặng, cho nên họ phải dìu dắt sinh linh đi tầm Chân lý đặng đáp tạ tấm lòng chiếu cố của thiện tín.

 


FOUR DEBTS OF GRATITUDE

Lord Buddha Master of the Western Peace used to urge his disciples thus: To fulfill filial piety and righteousness, we must accomplish our Four Debts Of Gratitude, which require lots of sacrifice and exertion:

 

  1. Debt of gratitude towards Ancestors and Parents,
  2. Debt of gratitude toward the country,
  3. Debt of gratitude toward the Three Jewels,
  4. Debt of gratitude toward Compatriots and Mankind

             (or ‘Debt toward Donors’ in case of monastics).

 

DEBT TOWARD ANCESTORS AND PARENTS: We were born acquiring a body to develop since infancy to adulthood and maturity.  Within such a years long period, our parents had incurred so much hardship.  But they were born thanks to our ancestors. Thus, as we acknowledge them, so too ought we to toward our ancestors.

 

To repay our parents, while alive, if they teach us any good and right thing, we must attend to their advice, never take it lightly, lest we should disaffect them. If they mistakenly do anything immoral, we must do our best to stop or dissuade them. Not only that, we need to repay them by taking care of their wellbeing while fostering harmony among siblings and creating familial happiness for their satisfaction. Pray for our parents to enjoy greater merits and longevity. If they pass away, pray for their souls to enter Buddhaland and exit the drowning cycle of rebirth.

 

To repay our ancestors, do nothing to defile our pedigree. If our ancestors have done anything wrong, afflicting their descendants with dire consequences, we ought to practice harder and sacrifice our lives for righteousness, redeeming our lineage.

 

DEBT TOWARD THE COUNTRY: For birth  we owe it to our parents and ancestors. For living, we owe it to our country. To benefit from every inch of the land and its produce, to facilitate our livelihood and to preserve our posterity, we feel obligated to defend our country should it be trampled upon by invaders. Support it while in dire straits and make it strong and prosperous. Liberate our country should foreigners dominate it. Only when its borders are well protected, do we enjoy peace. Only  when it is rich and strong, do we have greater comfort.

 

Exert ourselves to sacrifice for the country according to our capabilities. If we are not yet ready to assume significant tasks, nor have we yet had the opportunity to help our country, must we absolutely shun any misstep that may lead to harm it and never lend a hand for the enemy to wreak it. That’s the way we repay it.

 

DEBT TOWARD THREE JEWELS What are they? They are Buddha, Dharma, and Sangha.

 

Humans owe their birthing and raising to our ancestors and parents, and their subsistence to their country. That is on the material plane.

 

Mentally, we need Buddha, Dharma and Sangha to help develop our intellect. Buddha is a quintessence of morality, beauty, compassion,  resolute to save all sentient beings from their sea of sufferings. Thus, He bequeaths His Dharma, that is, His teachings for monastics to spread over the world: the latter are but His great disciples. Therefore, Buddha always guides and saves the sentient beings from their delusion and sea of suffering. Therefore, we must revere  Buddha and fully believe in His mission by following His teachings through the sangha’s guidance. Our forebears have been perceptive of His miracles and great-heartedness toward the sentient beings.  To respect and worship Him, to practice rightfully within the framework of His teachings, they have further developed the Tao, and constructed an unsurpassed, unparalleled castle of morality, which forever shines on with posterity.

 

Thus, we ought to align ourselves with our forebears’ dispositions to enhance our acumen for the sake of deliverance, to guide the disadvantaged, especially to continue spreading the morals  so that the spirit of compassion and generosity may permeate the broad masses worldwide. As such, we’ll not desert the legacy that Buddha and our forebears have bequeathed us and the respect from our posterity.

 

DEBT TOWARD COMPATRIOTS AND HUMANKIND: As soon as humans open their eyes to see the world, we already find ourselves reliant on the support of others and, the older we are, the more we depend on them.

 

We owe our survival to their grains of rice, our warmth to their clothing, our protection against harsh weathers to their accommodation. Happiness: we share it with them. Disaster: they incur it with us.

 

They and we have the same skin colour, speak the same language. When our compatriots gather, we become one, that is the Nation. Who are they? They are those whom we often call compatriots. 

 

The former and we belong to the same race, to the same lineage, share the glorious pages of history, and support one another in danger. Our common duty is to procreate the best possible future for the country. They and we are so deeply interdependent that we cannot separate from one another nor must we be divided, and there will be no case in which we can exist without our compatriots and vice versa. Thus we must help them so that we can repay the debt of gratitude we have owed them, even for a very small part.

 

Not only that, apart from our compatriots, we have a world in which people are toiling to provide for us what we need. They are humankind, those who coinhabit the planet Earth with us.  What will our people be like without humankind? Can we have sufficient goods to meet our needs? Can we have adequate self-sufficiency?

 

In brief, can we alone survive all climatic conditions, moments of disease, danger, and sustain these livelihoods?  Certainly not. Therefore, our people must seek help from humankind, that is, we must rely on other races of people, thus we have to acknowledge them. Think about them in the same way as we do about ourselves and our race.

 Moreover, Buddha’s compassion and magnanimity which we have recognized, are very deep and far-reaching. These sentiments are ubiquitous, regardless of skin colors, races, socio-economic backgrounds. They surpass all social strata and classes, and empathically place all into one: humankind and sentient beings.

In this sense, we have no legitimate ground to harm other peoples in the interest of ours or our people. Instead, uphold an ideal of harmony and tolerance toward them  while seeing ourselves bound to assist them where necessary.

As far as monastics are concerned, on top of the aforesaid benefits they have received, they are directly indebted to their donors, that is the male and female adherents who kindly provide them with what they need. The monastics rely on food, fabric, to medicine for their subsistence. In brief, they have entirely to depend  on the sustenance by the kind-hearted.

Toward the society, this debt is very heavy; thus, they ought to guide the living in search for the Truth to return their care and attention.

 


THẬP ÁC


Sanh ra ở đời, con người dầu muốn hay dầu không, cũng phải chịu dưới sự chi phối của định luật thiên nhiên. Định luật ấy gồm vào một chữ Đạo, đạo của con người kêu bằng “Đạo Nhân” và nó là một con đường đi trúng thì sống, bước trật tất chết.


Muốn làm tròn Nhân Đạo, phải giữ vẹn tứ ân. Nhưng trước hết hãy tránh Tam nghiệp và chừa Thập ác, cũng như muốn làm giàu phải tránh đừng cho thiếu nợ.


Mỗi người đều có ba nghiệp chướng sau đây:


  • Thân nghiệp: (tội lỗi do xác thân gây nên);
  • Khẩu nghiệp: (tội lỗi do miệng lưỡi gây nên);
  • Ý nghiệp: (tội lỗi do tư tưởng gây nên).


Ba nghiệp chướng ấy khiến con người phạm mười điều ác kể ra dưới đây:


Thân nghiệp sanh 3 điều ác:

                        1) Sát sanh

                        2) Đạo tặc

                        3) Tà dâm


Khẩu nghiệp sanh 4 điều ác:

                       1) Lưỡng thiệt               

                       2) Ỷ ngôn

                       3) Ác khẩu

                       4) Vọng ngữ


Ý nghiệp sanh 3 điều ác:

                     1) Tham lam

                     2) Sân nộ

                     3) Mê si


TEN EVILS


Born into the world, humans must incur the influence of natural law, whether they want it or not. This law is summed up into the word Tao, the way of humans named “Human Tao”.  And it is the path on which, if they correctly tread, they survive, otherwise they die.


To accomplish the Human Tao (Humanism), it is necessary to keep Four Debts of Gratitude.  First and foremost, shun Three Karmas and renounce Ten Evils: simply to speak, to be rich, don’t be a debtor.


The following are the three types of Karma:


  • Bodily Karma (the sins committed by the body)
  • Oral Karma (the sins committed by the tongue)
  • Mental Karma (the sins committed by the mind)


Those Three categories of Karmic Impediments cause humans to commit the following ten evils:


Bodily Karma consists of three Evils:

                           1) Killing

                           2) Plunder

                           3) Sexual misconduct


Oral Karma consists of four evils:

                          1) Double tongued

                          2) Scolding

                          3) Harsh, cruel speech

                          4) Telling a lie


Mental Karma consists of three evils:

                           1) Greed

                           2) Anger

                           3) Delusion

SÁT SANH, ĐẠO TẶC, TÀ DÂM

1. SÁT SANH:

 

Con người mới sanh ra ở đời đều có tánh hiền lành cả. Song đến lúc lớn khôn vì phải sống chung chạ với thế giới người hung tàn bạo ngược, tánh nết liền ô nhiễm những sự xấu xa hèn kém, trở nên độc ác dữ dằn. Loài người giết nhau vì tiền bạc, vì sắc đẹp, vì lợi danh, vì quyền thế, vì thù hềm, vì háo thắng… nghĩa là họ giết nhau vì sự ích lợi của một người, của một nhóm người, của một đẳng cấp xã hội, của một quốc gia; họ muốn tiêu diệt tất cả nhân loại, không một ai có quyền sống sanh cùng họ cả.

 

 

Tại trào nội, sự mà vua coi bầy tôi như cỏ rác, bầy tôi sánh vua như thể địch thù đã làm nguyên nhân cho biết bao cuộc tương tàn tương sát. Ngoài lê thứ thì con giết mẹ cha, tớ hại chủ, trò giết thầy, chồng vợ giết nhau, đệ huynh xâu xé. Những cuộc tương tàn rất thường xảy ra trong nhân loại không ngoài các lý do đã kể trên. Đó là người đối với người.

 

Người đối với thú cầm, sanh vật còn tàn nhẫn gấp mấy nữa: họ giết thú vật vì miếng ăn, vì sự dị đoan mê tín, vì sự vui thích.

 

 

Đành rằng mình không thể dứt tuyệt giết các sanh vật (gà, vịt, heo…) để nuôi thân sống; nhưng chẳng khá dựa vào lý “vật dưỡng nhơn” (thú vật sanh ra đặng nuôi con người) mà giết nó một cách quá đáng. Chỉ cần dùng nó vừa đúng theo sự nhu cầu cần thiết của các món thực phẩm mình thôi và không nên hoang phí hy sinh nó, nếu sự hy sinh ấy không ích lợi cho mình lắm. Nhứt là chẳng khá giết các thú vật trong khi tế lễ. Người ta tưởng rằng khi mình phạm tội với Thánh, Thần, Trời Đất có thể sát hại sanh vật cúng tế cầu cho tội quả tiêu trừ. Sự tin tưởng ấy rất sai lầm huyễn hoặc, vì đứng vào bực siêu hình cao cả như chư vị Thánh Thần, có lý  nào vì một tình riêng làm sai chạy lẽ công.

 

 

Khi gặp tai nạn bất ngờ hay rủi ro đau ốm, con người không chịu thuốc thang, khẩn vái Phật Trời cầu cho tai qua nạn khỏi, lại giết các thú vật tế Thần cúng Thánh, kêu cốt, kêu đồng. Họ không chịu tìm nguyên nhân các sự họa hoạn, không chịu tìm hiểu rằng những tai biến xảy ra đều do căn tiền báo quả hậu, và không chịu ăn năn chừa lỗi, tạo tác phước điền. Trong khi giết các thú vật đặng tế lễ, họ đã phạm thêm một tội ác lúc họ chưa đền bồi các tội ác trước được.

 

Chẳng những vậy thôi, họ còn giết các thú vật vì sự vui thích của mình; kẻ bắn chim đang bay trên trời, người chặt cá đang lội dưới nước. Họ bắt thú vật làm tấm bia cho họ nhắm trong những khi cao hứng, quên hẳn rằng sanh vật cũng có linh hồn, cũng có thân xác, cũng biết tìm lẽ sống còn như nhân loại vậy.

 

Thế nên, hãy tha thứ cho chúng, hãy dung dưỡng chúng và nhứt là đối với các gia súc: trâu, bò, ngựa, chó, mèo… chẳng khá sát hại, vì chúng đã giúp ích cho ta trong các việc sanh hoạt hằng ngày.

 

Tóm lại, không có sự sát sanh vô cớ nào có thể tha thứ được và trong những ngày chay lạt hãy cữ hẳn.

 

2. ĐẠO TẶC

Câu: “Bần cùng sanh đạo tặc” cần phải là một câu chữa mình của bọn bất lương vô đạo.

 

Những kẻ này ngày vẩn vơ đầu đường xó chợ, tối kiếm chỗ khoét vách đào tường, không làm muốn có ăn, không lo muốn có mặc.

 

 

Lớp người cặn bã của xã hội này, sống ngoài vòng pháp luật, trốn nhủi trốn chui, phá rối sự an ninh của dân chúng, chuyên lo giết người cướp của đoạt giựt tài sản của lương dân, không nghĩ rằng phải tốn bao nhiêu giọt mồ hôi, bao nhiêu dòng nước mắt mới làm ra được.

 

 

Họ là giống sâu làm rầu nồi canh, là tội nhân gây ra những tai biến trong những gia đình cần lao kiệm tiết, là nguyên nhân của sự nghèo sự khó, họ phá hoại hạnh phúc của con người.  Cơ hàn đói khó, thay vì phải làm lụng như những kẻ khác mưu cuộc sống còn, họ gây cái lỗi này rồi đến cái lỗi khác, phạm tội này rồi tới tội nọ, tạo chẳng biết bao nhiêu chuyện bất lành cho nhân chủng.

 

 

Lưới trời tuy thưa nhưng khó lọt, những kẻ ấy dầu họ không bị luật hình của loài người phân xử, song cơ Trời cũng sẽ báo ứng đến những hành vi en tối, nếu họ không chịu ăn năn chừa lỗi, sửa tánh tu thân, bỏ thói vô nghì, lánh điều phi nghĩa.

 

3. TÀ DÂM:

“Muôn việc lành hiếu thuận đứng đầu, ngàn việc dữ tà dâm đứng trước”. Sách sử thường bảo như thế. Lần giở xem sử sách, thời thấy tội ác ấy lan diễn ra khắp nơi, từ trào nội cho đến thứ dân, từ trong gia đình đến kẻ xa người lạ, nó là mầm gây ra biết bao thảm trạng! Gương của vua Tề với vợ Thôi Tử, An Lộc Sơn với Dương Quý Phi há chẳng còn lưu liên hậu thế.

Giàu ỷ của hiếp dâm kẻ khó, quan ỷ quyền cường bức đám dân hèn. Gian phu, dâm phụ từ xưa đến nay luôn luôn đều có. Muốn tránh sự bại hoại nền luân lý nước nhà, muốn giữ gìn tiếng tăm của gia thế, phải đừng để dục tình lôi cuốn, bắt chước gương xưa trau giồi lòng hiếu trung trinh tiết.

KILLING, PLUNDER, LASCIVITY

1. KILLING:

Humans are born all good. However, because they have to live close to rogue circles when they grow up,  their character is tarnished with ignobleness and lowliness, thus becoming wicked and ruthless. Humans kill one another for money, beauty, fame, interest, power, hatred, bellicosity, etc. That means, they kill one another for the interest of an individual, a group of individuals, a social stratum, of a state; they want to destroy the whole of Humankind, and no one has the right to coexist with them. 


In royal palaces, the king sees his subjects as garbage, the latter seeing the former as foes, resulting in myriad internecine woes. In a broader context, children kill parents, servants harm bosses, disciples kill masters, husbands kill wives, siblings maul one another.  These dramas very often happen to humankind for no other reason than the above-mentioned. It is human vis-à-vis human.Toward animals, human atrocity is several times worse: they kill animals for food, superstition, or entertainment. 

 

Even though we can’t absolutely renounce killing animals (chicken, ducks, pigs, etc.) to feed our bodies, we can’t, under the pretext  ‘Animals are to nourish humans‘, kill them more than necessary. People only need them enough to meet the requirements of their dishes, without wastfully sacrificing them. In particular, we should never kill animals part of their rituals.  People misthought that, when someone committed sins with Saints, Deities, Heaven, and Earth, they could pray for a pardon by slaughtering animals for sacrifice. This belief is a gross error and unfounded because such supernaturals as Saints and Deities will, never for their private interest, derail the course of justice. 


Facing an accidental injury or illness, humans tend neither to take medication nor to pray for the Divine to help them get over; instead, they kill animals for sacrifice using media to call Holy Spirits. They do not try to find out what has caused their disaster, illness. They don’t  realize that their disasters originate in their previous misdeeds, they neither repent nor build up merits. While killing animals for sacrifice, they commit more sins while they have not yet paid off the old ones.


Not only that, they also kill animals for the purpose of self-pleasuring; some shoot birds flying in the sky, others hack fish swimming in waters. They make animals their hunting targets each time they are in high spirits, forgetting that animals also have souls and know how to live like humans. 

Therefore, tolerate them and take care of them, especially the domestic ones such as  cattle, horses, dogs, cats, etc.; do not kill them because they assist us with running our daily activities.

In short, no unfounded killing is forgivable and, on vegetarian days, one ought entirely to abstain from it.


2. PLUNDER:

 

Indigence leads to theft and robbery” often is an excuse by the unscrupulous horde.


They meander around streets by day and, at night they seek to break into houses. They don’t work but want free food and clothing.

These scum of society, the outlaws, go in hiding and disrupt the public order and security, skilful at murdering and stealing from the sincere people, without thinking that the latter have shed lots of sweat and tears to earn their living.


They are like the worms that spoil the whole casserole of soup. They are the culprits of calamity to thrifty, hard-working families, the catalyst for poverty and misfortune of humans.  In deprivation, instead of working hard like anyone to subsist, they commit one sin after another, one offense after another, inflicting so many misfortunes upon the general public.


Though the heavenly net is thin, it is hard to sneak through. These outlaws can escape from the penal law of humans. But they can’t avoid heavenly repercussions on their dark acts if they do not repent, renounce unrighteous actsimprove their character.

 

3. LASCIVITY: 

Filial piety tops in all good deeds; sexual misconduct is the worst of immoral acts.” Sutras often said.  Look up history books, and one can see this sin all over, from palaces to commoners, from families to strangers; many tragedies germinate therefrom! The tales of An Lushan with Yang Gui Fei, and King Qi Zhuang Gong with  Cui Zhu’s wife, were lingering  to the present.

The money-ready rich rape the poor; position-abusing mandarins suppress commoners. Since antiquity, male and female adulterers are popular. To preserve national morality and safeguard family repute, don’t let one prone to lust, and follow the traditional models of filial piety, loyalty, and chastity .

 

LƯỠNG THIỆT, Ỷ NGÔN,
ÁC KHẨU, VỌNG NGỮ

 

4. LƯỠNG THIỆT:

 

Đứng đầu các tội ác do miệng lưỡi gây ra, ác lưỡng thiệt này đã làm duyên cớ cho những sự hiểu lầm nhau, những sự cãi vã gây gổ sanh oán sanh thù. Sự phải của người thì bớt, sự quấy của người thì thêm, cái lưỡi đã tạo những sự chia rẽ, những cuộc phân tranh, phá tan sự đoàn kết tình thân yêu giữa nhân loại.


Nó cũng là nguồn cội của bao nhiêu bất hòa, hiềm khích.


Để giải trừ những tai vạ ấy, phải giữ cho lời nói mình được thành thật, chánh đáng; được vậy trong hương đảng mới bớt rầy rà, ngoài xã hội không điều xích mích, và mình cũng không còn chịu ác cảm, tránh sự miệt khinh của kẻ khác.


5. Ỷ NGÔN:

 

Nói đến tội ác nầy tức là nói đến những vụ chủ ỷ quyền nhiếc xài tôi tớ, quan ỷ thế mắng chưởi dân ngu. Kẻ giàu có thường ỷ tiền bạc xài xỉ người nghèo, kẻ xảo quyệt ỷ sự khôn lanh nói những điều thất thiệt, kẻ học thức ỷ sự khôn ngoan dùng lời nói hạ nhục người dốt nát. Hãy tránh những sự hiếp người như thế ấy, vì những kẻ dưới tay mình cũng có đầu óc, cũng biết nghĩ suy, nhưng họ bạc phước vô phần nên phải chịu lụy mình vậy. Nếu họ có lỗi lầm hãy dạy dỗ họ, dùng những cam ngôn mỹ từ, những lời trang nghiêm êm dịu chỉ bảo, không khá bao biếm mà mang điều tội lỗi.


6. ÁC KHẨU: 

 

Những tiếng thề thốt lỗ mãng, chưởi mắng tục tằn làm ra tội này; con chưởi mẹ mắng cha không kể luân thường thảo hiếu; mạnh bạo hăm he đánh giết những kẻ yếu hèn, hiếp đáp xóm chòm cô bác. Mở miệng ra chưởi gió mắng mây, trù rủa gia đình, không kiêng Thần Thánh. Tối ngày kêu réo Phật Trời, mời thỉnh Long Cung, làm cho tội lỗi càng thêm chồng chất.]


Hãy bỏ những tiếng tục tằn thô lỗ làm cho đời sống được êm dịu thanh bay hơn. Đối với cha mẹ phải có lễ độ, với gia đình, với bà con cô bác, với xóm chòm quen thuộc, lời nói mình phải đoan trang nghiêm chỉnh. Đối với con cháu trong nhà không nên nói những điều ác đức, phải dùng lời nói dịu dàng hiền hậu dạy dỗ chúng.


7. VỌNG NGỮ:

 

Thêm thừa huyễn hoặc, có nói không, không nói có, ác vọng ngữ đã làm nguyên nhân cho những sự bất công của nhân loại. Thương người nào kiếm cách bào chữa giấu giếm sự quấy và thêu thùa sự tốt ra; ghét ai đặt điều nói xấu, che đậy các điều phải của họ.

 

Khoe khoang tự đắc, xảo trá đa ngôn, những kẻ điêu ngoa làm cho thiên hạ khinh khi miệt thị. Muốn tránh những điều khiến cho tư cách nhân quần phải bị giảm hạ, hãy tập tánh nói năng chân chánh, bỏ lối láo xược trớ trêu. Chẳng nên tráo chác với người, bỏ tiếng xảo ngôn và phải dùng lời chơn chất.

DOUBLE TONGUE, SCOLDING, OBSCENITIES, TELLING LIES

 

4. DOUBLE TONGUE:

The tongue stands foremost among the evils. The double tongue induces misunderstandings, quarrels and conflicts, and animosity. The right side of people is underrated, and their wrong one is exaggerated; the tongue has not only created disunity, strife, infighting but also destroy solidarity and friendship between people.
 

It is the origin of innumerable disharmonies and discordances.

To remove this calamity, one must keep their speech truthful, righteous; this done, neighborhoods have fewer squabblings, the larger community has no friction, and one will no longer incur resentment nor defilement from another.


5. SCOLDING: 


Talking about this evil, one refers to the scolding of servants by the bossy employer and that of commoners by the haughty mandarin, that of the poor by the condescending rich. The cunning use their cleverness to tell lies, the learned use their knowledge to berate the illiterate. Don’t bully people like that because one’s subordinates also have brains and abilities to think, but they accept submissiveness just because they are less fortunate. If they make a mistake, try to educate them, gently and kindly instruct them. Do not be sarcastic lest you should sin.

  

6. USE OF OBSCENITIES:  

 

Swearwords and profanities make up this kind of sin; children abuse their parents regardless of morality and filiality;  the strong threaten, hit or kill the weaker, bully their neighbors. They tend to curse winds and clouds, their families, disrespect deities. All day, they summon the Holy Supreme, invite the Waterworld, thus heaping their sins  up .

 

Renounce these obscenities to make life calmer and serener.  Be polite toward parents, treat family members, relatives, friends, and neighbors , senior or junior, with decency.  Toward children and grandchildren at home, don’t speak cruel things and, instead, be nice and kind to educate them.

  

7. TELLING LIES: 

 

Fabricating stories, embroidering mysteries, make up fallacies, this evil of lying is the cause of myriad injustices for humans. Liking someone, one seeks to defend or hide their faults and embroider their positive side;  disliking someone, one invents bad stories to denigrate them and conceals their positive side.

 

Bumptiousness and grandiloquence bring a despise upon the mythomaniac. To stop degrading societal relations, be veracious, and renounce misleading and fraudulent statements. Do not cheat others,  do away with lies and ought to use truthful words.

 

THAM LAM, SÂN NỘ, MÊ SI

́8.  THAM LAM.

 

 Tánh tham lam đã làm cho loài người phải chịu bao nhiêu thảm khổ: chiến tranh, cướp bóc, giết người… tham danh, tham lợi, tham sắc, tham tài, tham quyền, tham thế… Những sự ấy đã xô đẩy con người vào chẳng biết bao nhiêu cuộc chiến đấu ác liệt, gây nên những thảm họa tầy trời. Những tấn tuồng giặc giã, cướp của sát nhơn, những vụ hối lộ, những vụ tranh thế giành quyền đã làm cho nhân sanh điêu linh trong vòng tai nạn khốc hại.

 

Cái tham ấy cũng đã làm cho con người đau buồn hận khổ, phải khóc đứng than ngồi, phải liều mình tự sát chỉ vì sự ham muốn không được thực hiện; người ta quyên sinh vì tình yêu, vì lợi quyền, vì thất trận… Những cuộc cấu xé lẫn nhau, những vụ nồi da xáo thịt, những tương sát tương tàn, những điều hung hăng bạo ác cũng do sự tham lam mà ra cả.

 

Ngày giờ nào loài người diệt được tánh ham muốn của mình, ngày giờ ấy bớt được một phần lớn của sự khổ.

 

Vả lại, ở đời phải có những lúc thăng trầm chìm nổi, có thì ta xài, không ta nhịn, can gì phải bày mưu tính kế chiếm đoạt của kẻ ngoài. Của là của chung trong thiên hạ; đời ta còn, nó còn; đời ta mất, nó mất; gương Thạch Sùng, Vương Khải há không để lại cho ta một bài học đích đáng lắm ru?

 

Thế nên, hãy nghĩ đến người cũng như mình nghĩ đến mình, hãy dẹp lòng vị kỷ tham lam, lo vun trồng phước đức, bố thí cho kẻ nghèo hèn, rán công phu sám hối để có thể yên vui nơi miền Cực Lạc, lánh sự giả tạm ở cõi trần nầy.

 

9.  SÂN NỘ

Tánh nóng nảy thường xúi con người làm những chuyện bất công sái phép, chém giết oán thù nhau. Kẻ thắng kiêu hãnh, người bại hổ ngươi, nên sự hiềm thù càng lan rộng. “Giận mất khôn”, cơn giận làm cho con người cuồng trí, mất sự tự chủ, trở nên dữ dằn bạo tợn, chẳng còn nghĩ đến việc công bình, lẽ phải trái.

 

Diệt được nó tâm ta được thảnh thơi, trí ta được thong thả. Hãy mở lượng khoan hồng dung tha kẻ lầm lỗi. Hãy nhẫn nhịn và chẳng nên cãi cọ tranh luận hơn thua làm cho nảy sanh ra những điều hiềm khích.

 

10. MÊ SI 

Tội ác nầy do sự thiếu óc phán đoán, thiếu sự nghĩ suy mà ra; vì vậy con người ít hay phân biệt được lẽ phải trái, bo bo giữ thiển kiến sai lầm, chẳng chịu nhìn nhận Chân lý, suốt cả đời ngu muội, chỉ biết mê man theo những vật nhỏ nhen, mau tan, mau rã, chỉ biết tin bướng làm càn, không tìm hiểu con đường giải thoát.

 

Hãy xóa bỏ những điều mê tín, qui thuận theo tinh thần đạo đức, lánh chốn mê lầm tỉnh cơn mộng huyễn, phá tan màn vô minh che mờ tâm trí, lần bước trên con đường đạo hạnh, đi đến chỗ bất diệt bất sanh.

 

GREED, ANGER AND DELUSION

 8. GREED: 


Greed has made humans suffer from so many disasters: wars, plunders, murders, etc. Greediness for prestige, profits, good look, property, power, influence, etc. has plunged humans into so many fierce battles, onslaughts, resulting in heinous calamities and unimaginable massacres. The dramatic scenes of hostility, pillages, murders, rortings, racketeering, scrambles for spheres of influence all have wreaked havoc on humankind.


This greediness has also made humans suffer from rancor and grieve day and night, resort to suicide, only because their desires could not be realized; people kill themselves because their struggles for loves, self-interest, and the like, have not materialized. Infightings, internecine massacres, fratricides, brutalities, cruelties, all have originated from this greed.


If only humans have put an end to their greed will their sufferings significantly diminish.


Moreover, in reality, no one could avoid experiencing ups and downs; if we have, we spend, if we don’t, we refrain.  Why plot to usurp others’ things? Things are everyone’s . As long as we live, it exists; when we die, it is lost. Have a look at the stories of Thach Sung, and Vuong Khai which must have taught us a lot of precious lessons?


Thus, let’s think of people as though we thought of ourselves. Dispel selfishness and greed.  Cultivate merits, donate to the poor, and diligently repent so that you may enjoy bliss on the Pureland and escape from this impermanent world.


9. ANGER: 

Anger often incites people to commit injustices and bloody retribution. The winner gloat, the loser are shameful, so this enmity keeps expanding. “Anger obfuscates people’s acumen“, anger often drives people crazy, losing self-control, becoming ferocious, barbaric, no longer thinking of fairness and justice.


With this removed, we feel at ease and elation. Be tolerant toward those who have made mistakes. Forbear, and do neither bicker nor argue to defend  our opinion as this may lead to further frictions.


10. DELUSION:

this sin is created by a lack of judgment or poor thinking. Therefore, one seldom discerns right from wrong, clings to misconceptions, fails to recognize the Truth, being ignorant for life.  They focus on tiny, lowly, easily degradable things. They defend their arrogance without probing the way to deliverance.


Eradicate superstitions, abide by morality, avoid delusion and  wake up from illusions, destroy primal ignorance that blurs one’s mind, step by step go on the moral path, toward immortality.